Một số nội dung cốt lõi từ bài viết “Kỷ nguyên phát triển mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” của Tổng Bí thư Tô Lâm

Thứ hai - 03/02/2025 21:51 103 0
Kỷ nguyên là giai đoạn lịch sử có đặc điểm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển. Kỷ nguyên vươn mình mang ý nghĩa tạo sự chuyển động mạnh mẽ và quyết liệt để vượt qua thách thức. Dân tộc Việt Nam cần có chuyển đổi mạnh mẽ để vượt qua chính mình và đạt được thành tựu lớn.
Kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam là một thời điểm đầy hứa hẹn, giúp chúng ta sẽ trở thành một nước phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Đây là khoảng thời gian chúng ta sẽ xây dựng đất nước trở nên hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng ta sẽ tạo ra một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Mục tiêu của chúng ta là tạo ra một đất nước giàu mạnh, nơi mà mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần phát triển đồng bộ các lĩnh vực kinh tế, xã hội và công nghệ. Chúng ta sẽ tập trung vào việc xây dựng một nền công nghiệp hiện đại, tạo ra việc làm và thu nhập cho người dân.
Kỷ nguyên mới của chúng ta cũng là một thời điểm để chúng ta khơi dậy tinh thần tự chủ và tự cường. Chúng ta sẽ tự tin vào khả năng của mình và sẵn sàng đối mặt với mọi thách thức. Cơ sở định vị mục tiêu giúp đất nước có hướng đi rõ ràng và bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó dân tộc sẽ mạnh mẽ vươn mình. Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tựu đạt được đã giúp Việt Nam mạnh mẽ phát triển sau 40 năm đổi mới. Việt Nam chuyển từ một nước nghèo, lạc hậu thành nước đang phát triển với thu nhập trung bình, hội nhập sâu vào thế giới. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ tốt. Nền kinh tế Việt Nam tăng mạnh với quy mô năm 2023 gấp 96 lần năm 1986. Việt Nam trở thành một trong 40 nước lớn nhất thế giới và đứng đầu về thương mại và thu hút đầu tư. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 nước thành viên Liên hợp quốc và xây dựng các mối quan hệ hợp tác với tất cả các cường quốc trên thế giới. Đời sống người dân cải thiện rõ ràng và tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Thế giới đang trải qua giai đoạn thay đổi quan trọng. Năm 2030 là thời điểm quan trọng để hình thành trật tự thế giới mới. Đây cũng là thời cơ chiến lược quan trọng để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm.
7e727ca45d1ea2a59cc0897c4e1d88083 01142807012025

Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - nguồn: https://www.qdnd.vn

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại cơ hội cho các quốc gia đi trước đón đầu. Đảng ta luôn phát triển và hoàn thiện phương thức lãnh đạo để bảo đảm sự trong sạch và vững mạnh. 94 năm lãnh đạo cách mạng đã chứng minh hiệu quả của phương thức lãnh đạo này. Tổng Bí thư chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nhiều văn bản được ban hành chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm sửa đổi, một số chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế đầy đủ hoặc không khả thi.
Thứ nhất, mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện và có những nội dung chưa rõ ràng. Từng bước sẽ phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn để tránh ranh giới lãnh đạo và quản lý bị hỗn loạn. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, thiết thực tăng cường năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, trong thời gian tới cần chú trọng một số giải pháp quan trọng là: (i) Thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo. (ii) Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng một cách hợp lý mà vẫn đảm bảo hiệu quả công việc. (iii) Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành, quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng, Xây dựng các tổ chức cơ sở đảng thật sự vững mạnh. (iv) Đổi mới mạnh mẽ công tác kiểm tra, giám sát và ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của Đảng. (v) Đổi mới Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát và phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực. Về điều này: Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, kết quả đạt được đáng khích lệ, nhưng vẫn còn tồn tại, hạn chế đáng kể, một số chủ trương của Đảng chưa được thể chế kịp thời, định hướng chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Đảng cần phát huy công tác thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng vào hệ thống pháp luật. Nhằm thúc đẩy tiến bộ nhanh chóng và bền vững của xã hội. Để cải thiện quy trình lập pháp, cần có sự đổi mới mạnh mẽ. Phải chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo và khơi thông mọi nguồn lực để phát triển; các quy định của luật phải đảm bảo tính ổn định và lâu dài. Luật chỉ quy định những vấn đề khung và nguyên tắc, tránh dài dòng. Những vấn đề cần linh hoạt thì giao cho Chính phủ và địa phương quyết định; cần đổi mới quy trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn và lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Thường xuyên đánh giá hiệu quả và chất lượng chính sách để kịp thời điều chỉnh và giảm thiểu thất thoát; cần đẩy mạnh phân cấp và phân quyền cho các địa phương. Cải cách thủ tục hành chính và giảm chi phí tuân thủ. Tăng cường kiểm soát quyền lực và đề cao trách nhiệm người đứng đầu; cuối cùng, cần chủ động xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới và tạo khung khổ pháp lý cho cuộc cách mạng về chuyển đổi số.
Thứ hai, tinh giản bộ máy hành chính là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Mục tiêu là cắt giảm chi tiêu cho bộ máy hành chính. Mặt khác, là tinh gọn và hoạt động hiệu quả. Tính hiệu quả của bộ máy hành chính hiện tại còn hạn chế do: chi phí ngân sách được sử dụng một cách lãng phí; Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chồng lấn; có những bộ, ngành đang nắm giữ nhiệm vụ của địa phương; cơ chế xin, cho đã gây ra nhiều vấn đề tiêu cực và tham nhũng; công tác tinh giản biên chế chưa thực sự triệt để. Tất cả những vấn đề trên đã gây khó khăn cho việc phát triển và tạo thêm thủ tục hành chính, khiến doanh nghiệp và công dân mất nhiều thời gian và công sức. Vì vậy cần thay đổi quan hệ sản xuất không phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất mới. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách và công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số vẫn còn hạn chế.
Thứ ba, thủ tục hành chính rườm rà và nhiều cửa đang cản trở phát triển. Việc kết nối dữ liệu và dịch vụ công trực tuyến cũng chưa hiệu quả. Phải tiến hành cuộc cách mạng chuyển đổi số mạnh mẽ với những cải cách toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất và mang lại động lực mới cho phát triển. Chúng ta phải tận dụng một cách hợp lý cơ hội và lợi thế từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đưa đất nước phát triển nhanh chóng. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia để lãnh đạo và chỉ đạo toàn bộ Đảng và hệ thống chính trị thực hiện quyết liệt.
Thứ tư, để phát triển kinh tế số, Việt Nam cần xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số. Hành lang pháp lý cần được rà soát, sửa đổi kịp thời để tạo môi trường thuận lợi cho các mô hình kinh tế mới. Tạo khung pháp lý không trở thành rào cản, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia và quyền lợi hợp pháp của người dân. Việt Nam cần có cơ chế thu hút nhân tài trong và ngoài nước. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng phù hợp với nền kinh tế số và công nghiệp 4.0. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng nền tảng số kết nối và chia sẻ dữ liệu. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số. Việc chuyển đổi số cần được đảm bảo an ninh và an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất.
Thứ năm, chống lãng phí: Lãng phí gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, thậm chí nghiêm trọng hơn tham nhũng. Nó gây mất lòng tin của nhân dân, tạo rào cản trong phát triển kinh tế - xã hội và làm suy giảm sức mạnh của đất nước. Lãng phí gây ra nhiều hệ lụy cho phát triển, bao gồm giảm hiệu quả sản xuất, gây cạn kiệt tài nguyên và gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Một số dạng lãng phí đang nổi lên bao gồm: chất lượng luật pháp chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn dẫn đến nhiều khó khăn và lãng phí; thủ tục hành chính rườm rà khiến người dân và doanh nghiệp phải dành nhiều thời gian và công sức; bộ máy nhà nước hoạt động chưa hiệu quả dẫn đến lãng phí cơ hội; quản lý tài nguyên thiên nhiên và tài sản công chưa hiệu quả; lãng phí trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân; hệ thống tiêu chuẩn và định mức chưa phù hợp với thực tế; xử lý lãng phí chưa được đề cao và chưa tạo được phong trào chống lãng phí. Vì vậy, cần có biện pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng lãng phí và xây dựng văn hóa tiết kiệm như: (i) Phòng chống lãng phí và tham nhũng sẽ được đẩy mạnh bằng cách: Ban hành quy định của Đảng để nhận diện và quy định của pháp luật; Xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể gây thất thoát, lãng phí tài sản công. (ii) Rà soát và bổ sung các quy định về quản lý và các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp. (iii) Giải quyết dứt điểm các dự án quan trọng quốc gia và các dự án thất thoát, lãng phí lớn. (iv) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí và đưa thực hành tiết kiệm trở thành thói quen tự giác. Cán bộ cần thực hiện các nhiệm vụ trong năm tới để phòng chống lãng phí và tham nhũng.
Thứ sáu, về cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.
Cán bộ và công tác cán bộ giữ vị trí quan trọng trong cách mạng. Người có đủ năng lực sẽ đưa đất nước ra vào thời đại mới. Về phẩm chất, yêu cầu đối với cán bộ bao gồm: có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức tốt; có bản lĩnh và determination cao, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân; có năng lực thực hiện chức trách và nhiệm vụ, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh những yêu cầu này để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước ra vào thời đại mới. Để xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới, cần thực hiện những thay đổi sau: tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm và đánh giá cán bộ theo hướng thực chất và đo đếm được; tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, đặc biệt là chuyển đổi số; tạo cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm và dám đổi mới sáng tạo; Sàng lọc và đưa ra khỏi công tác những người không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín; đảm bảo trình độ và năng lực của những người tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp.
Thứ bảy, về kinh tế, cần xây dựng nền kinh tế trong sáng, minh bạch, công bằng và phát triển bền vững. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục kể từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991. Sự tăng trưởng liên tục đưa Việt Nam từ nước thu nhập thấp lên nước thu nhập trung bình. Xét về mức độ tăng trưởng, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu ở Việt Nam. Ảnh hưởng đến nền kinh tế, Việt Nam có thể rơi vào "bẫy thu nhập trung bình". Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giảm dần, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Năng suất các nhân tố tổng hợp cũng có xu hướng giảm, cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm. Tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu. Đa số các doanh nghiệp FDI nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp hỗ trợ. Khi thời kỳ "dân số vàng" kết thúc, giá nhân công tăng, lợi thế cạnh tranh không còn. FDI sẽ dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam.
Cán bộ, công chức không dám nghĩ, dám làm, ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế chưa phát huy hiệu quả. Lãng phí trong sử dụng đất đai, khoáng sản, chưa hiệu quả trong phát triển hạ tầng giao thông... Có nhiều nguyên nhân gây tắc nghẽn cho kinh tế Việt Nam như: (i) Hệ thống pháp luật và quản lý yếu kém, tình trạng sợ sai và né tránh trách nhiệm phổ biến ở các cơ quan. (ii) Kinh tế phát triển chậm, đầu tư công chậm tiến độ và hiệu quả thấp. Hoạt động tái cấu trúc các tổ chức tín dụng còn chậm và tình trạng cho vay ưu đãi cho doanh nghiệp thân tộc vẫn còn. (iii) Hệ thống hạ tầng và phát triển đô thị chưa được kết nối. Xây dựng hạ tầng số còn chậm. (iv) Kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh mẽ như mong đợi, chưa tận dụng được nguồn lực đầu tư nước ngoài. (v) Ứng dụng khoa học - công nghệ còn chậm, chất lượng nguồn nhân lực chưa tốt. (vi) Các yếu tố bên ngoài tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Hãy tập trung phát triển thể chế, tháo gỡ rào cản và huy động nguồn lực để xây dựng một đất nước thời hiện đại và phát triển bền vững.
Đầu tiên, chúng ta cần xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa với người dân là trung tâm, đảm bảo cuộc sống tốt đẹp và công bằng. Tiếp theo, cần tập trung phát triển nguồn lực mới bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghệ hiện đại. Ngoài ra, cần thực hiện cách mạng chuyển đổi số để nhanh chóng tiến lên và không bị tụt hậu. Chúng ta cũng cần xây dựng một nền kinh tế áp dụng công nghệ chiến lược, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới không chỉ mang tính định hướng mà còn là lời hiệu triệu sâu sắc đến mỗi người dân Việt Nam. Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ là sự phát triển về kinh tế, chính trị hay công nghệ, mà còn là sự vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc, vượt qua thách thức để thực hiện khát vọng chung: xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Khánh Duy
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây