Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập

Thứ sáu - 21/02/2025 05:40 12 0
Tóm tắt:
Bài viết này bàn về việc nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập . Trong xu hướng tự chủ cơ sở giáo dục công lập hoàn toàn về tài chính; việc quản lý, sử dụng đất đai một cách có hiệu quả là phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội. Với tư cách là một trong ba trụ cột cốt lõi của tự chủ cơ sở giáo dục, đất đai cần được xem như một nguồn lực “sức mạnh”.
Từ khóa: Đất đai, cơ sở giáo dục công lập, quyền sử dụng đất đai, các cơ sở giáo dục công lập.
Abstract:
This article discusses improving the effectiveness of land economic management and exercising land use rights of public educational institutions. In the trend of complete financial autonomy of public educational institutions; Effective management and use of land is appropriate to socio-economic conditions. As one of the three core pillars of educational institution autonomy, land should be seen as a resource of "strength".
Keywords: Land, public educational institutions, land use rights, public educational institutions.
1. Đặt vấn đề
Một trong những điểm mới quan trọng rất đáng được cơ sở giáo dục công lập – với tư cách là “người sử dụng đất”[1] quan tâm của Luật đất đai năm 2024 chính là sự ghi nhận: “đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập có nhu cầu sử dụng một phần hoặc toàn bộ diện tích được giao để sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ thì được lựa chọn chuyển sang hình thức Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm đối với phần diện tích đó”.[2] Cùng với đó, tại điểm c khoản 3 Điều 120 cũng ghi nhận: “đơn vị sự nghiệp công lập lựa chọn hình thức thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật này”. Cũng như vậy, tại Điều 9 quy định về phân loại đất thì đất đai được phân loại thành gồm nhiều loại khác nhau, trong đó có loại đất “giáo dục và đào tạo” thuộc nhóm đất phi nông nghiệp[3], và theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật đất đai năm 2024 thì đất đai có thể được chuyển mục đích sử dụng khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Chính vì những quy định mới mẽ này, mà chúng ta rất cần thiết bàn về việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cũng như thực hiện quyền sử dụng vốn đất đai hay bàn về kinh tế đất tại các cơ sở giáo dục công lập, nhất là trong điều kiện tự chủ hóa các cơ sở giáo dục công lập như thực tiễn hiện nay. Phải khẳng định rằng, đất đai là một nguồn lực vô cùng quý giá và ngày càng quý giá, nó góp phần giải quyết những nhu cầu từ cơ bản nhất của con người đến việc phát triển kinh tế - xã hội, không phải chỉ riêng cho một đơn vị hành chính, một đất nước mà cả tính quốc tế.
Trong thực tế, sự quản lý kinh tế đất (kinh tế đất luôn luôn gắn với quá trình xác định giá trị đất) cùng với việc thực hiện quyền sử dụng đất – một trong những nguồn lực quan trọng mà Nhà nước đã trao cho các cơ sở giáo dục công lập là một nhiệm vụ rất khó và có nhiều bức bách. Bởi vì, phải tổ chức thực hiện quyền sử dụng đất đúng mục đích, đúng diện tích, có hiệu quả,… nhưng vẫn cón khá nhiều rào cản như: chưa cho chuyển đổi mục đích dù diện tích đất có thừa so với hoạt động chính, hoặc không được đan xen nhiều hoạt động của các cơ sở giáo dục công lập mặc dù có sự tác động qua lại, xoay quanh trục hoạt động chính là giáo dục và đào tạo[4], thực trạng nhiều cơ sở còn lãng phí chưa tận dụng được hết các công năng, nên rất cần “cắt phao”, “cởi trói” để đáp ứng nhu cầu chung về tự chủ trong giáo dục, phải thừa nhận rằng việc thực hiện quyền sử dụng đất đai tại các cơ sở giáo dục công lập (đa phần) vẫn còn những mặt, những khía cạnh chưa khai thác, chưa dám khai thác tiềm năng, thế mạnh, chưa tận dụng hết cơ hội, cũng như trong khai thác, sử dụng, với tư cách đất đai được xem như một nguồn vốn có nhiều lợi thế lớn. Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế tự chủ hoàn toàn về tài chính đối với các cơ sở giáo dục công lập đang là một xu thế. Trong hoàn cảnh đó, các cơ sở giáo dục công lập rất cần có một sự “trợ lực” và còn phải tận dụng tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng mà Nhà nước trao cho trong đó có đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị trong khuôn khổ của pháp luật nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa, nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo cũng là hướng mà pháp luật không ngăn cấm. Được như vậy mới có thể “cạnh tranh” một cách sòng phẳng với các cơ sở giáo dục và đào tạo bên ngoài Nhà nước - ở đó có sự thông thoáng hơn về cơ chế tài chính, nguồn lực tài chính lại dồi giàu.
Trong bài viết này, tác giả muốn tiếp cận với giác độ phát huy tối đa nguồn lực vô cùng quan trọng là vốn đất đai – đất đai là vốn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế đất, cũng như thực hiện quyền sử dụng đất đai tại các cơ sở giáo dục công lập trong xu thế tự chủ hoàn toàn về tài chính đối với các cơ sở giáo dục công lập, góp phần làm “hùng mạnh” sức cạnh tranh giữa các đơn vị công lập và các tổ chức giáo dục đào tạo bên ngoài Nhà nước đem lại nhiều lợi ích cho nhiều đối tượng liên quan hoạt động giáo dục và đào tạo, đặc biệt là người học và các chính các cơ sở giáo dục công lập.
2. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập
2.1. Quy định trong pháp luật đất đai
Các cơ sở giáo dục công lập[5] được xác định là “Người sử dụng đất” theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 với tư cách chủ thể là một loại tổ chức trong nước sử dụng đất. Loại đất mà các cơ sở giáo dục công lập đang quản lý sử dụng trong nhóm đất phi nông nghiệp theo khoản 1 và điểm d khoản 3 Điều 9 Luật Đất đai 2024 và có thể được “chuyển mục đích sử dụng” sang loại đất khác như: đất nông nghiệp; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, …  khi “được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” như quy định tại  khoản 2 Điều 13 của Luật đất đai năm 2024. Như vậy, các cơ sở giáo dục công lập có quyền sử dụng có một loại đất duy nhất là đất “giáo dục và đào tạo” như những quy định trước đây và còn có thể sử dụng đồng thời nhiều loại đất với nhiều mục đích khác nhau nếu như được cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng và chính cơ sở giáo dục công lập đó cũng mong muốn tạo những ưu thế về vốn là đất đai được Nhà nước trao quyền. 
Theo quy định của Luật Đất đai, các cơ sở giáo dục công lập được xác định tư cách là “người sử dụng đất” nên được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ chung của người sử dụng đất được quy định tại Điều 26, Điều 27 và Điều 31, ngoài ra còn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại các điều 32, 33, 34. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn là đại diện chủ sở hữu về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai.
Các cơ sở giáo dục công lập có hình thức sử dụng đất là thông qua việc Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất (Điều 32) hoặc Nhà nước cho thuê đất có thu tiền sử dụng đất (Điều 33, Điều 34) mà không bàn về việc các cơ sở giáo dục công lập có tự chủ tài chính hay không, đây là một điều quan trọng trong luật đất đai, bởi vì đều là chủ thể sử dụng đất thì được xem bình đẳng như nhau, không phân biệt theo như những quy định trước đây: Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với các cơ sở giáo dục công lập chưa tự chủ hoàn toàn về tài chính nhằm để xây dựng công trình sự nghiệp (Điều 53 Luật đất đai năm 2013), mặc dù đây có thể nói là ưu ái nhưng lại bị hạn chế rất nhiều quyền sử dụng đất cho nên cũng không phát huy được “sức mạnh” là nguồn lực đất đai hay nói cách khác là hạn chế khả năng của kinh tế đất. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục công lập dù có sử dụng đất dưới hình thức thuê trả tiền hàng năm hoặc thuê đất mà tiền trả thuê đất có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước thì cũng không được thực hiện đầy đủ quyền sử dụng đất đó.  Luật đất đai năm 2024 đã mở ra một khả năng mới về kinh tế đất như khoản 3 Điều 30 quy định là được phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nếu cơ sở giáo dục công lập mong muốn và phải thực hiện thủ tục hành chính tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khả năng có thể xảy ra là mô hình các cơ sở giáo dục công lập tự chủ hoàn toàn về tài chính, sẽ sử dụng đất dưới hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hay thanh toán bằng hình thức khác và tiền sử dụng đất được thanh toán  không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì sẽ được lựa chọn vì có như vậy sẽ không có sự ràng buộc cứng nhắc, các cơ sở giáo dục công lập sẽ biết vận dụng là chọn nhiều mục đích sử dụng đất trên mảnh đất đã được cấp trước đây để phát triển “kinh tế đất”, họ sẽ có quyền rộng hơn có khả năng nâng cấp hoạt động của mình. Phần còn lại, việc khai thác, quản lý tài sản công cũng như nguồn lực đất đai đem đến hiệu quả hay không là do năng lực của các cơ sở giáo dục công lập tự chủ hoàn toàn về tài chính.
 Luật Đất đai năm 2024 không còn sự phân biệt “nhóm” thực hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể cho từng loại đơn vị mà chỉ quy định quyền và nghĩa vụ chung, quyền và nghĩa vụ cụ thể cho từng loại chủ thể không loại trừ các cơ sở giáo dục công lập, điều này cho thấy được tính minh bạch, công bằng với tất cả các chủ thể sử dụng đất và có thể việc phân loại các cơ sở giáo dục công lập sẽ được quy định trong luật chuyên ngành về tự chủ tài chính của các đơn vị công lập.
2.2. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế đất đối với đất đã trao quyền sử dụng cho các cơ sở giáo dục công lập
Đất đai được xem như một loại “vốn đặc biệt” của các cơ sở giáo dục công lập. Vốn, giống như năng lượng, cũng là một giá trị đang nằm ngủ. Đưa vốn vào cuộc sống đòi hỏi phải đi xa hơn việc nhìn các tài sản như chúng đang tồn tại, mà phải suy nghĩ một cách năng động về tiềm năng của chúng[6]. Vốn đất đai của các cơ sở giáo dục đại học công lập đang quản lý, sử dụng được điều chỉnh bởi Luật Đất đai và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017[7] theo đó tại khoản 3 Điều 5[8] quy định “Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước thực hiện: đầu tư vốn, khoa học và công nghệ để phát triển tài sản công và hiện đại hóa công tác quản lý tài sản công theo quy định của pháp luật; nhận chuyển giao quyền đầu tư, khai thác hoặc thuê quyền khai thác tài sản công theo quy định của pháp luật; cung cấp dịch vụ về tài sản công theo quy định của pháp luật.”
Tuy vậy, trong trường hợp quyền sử dụng đất được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết mà tiền thuê đất đã được trả một lần cho cả thời gian thuê không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thì các cơ sở giáo dục công lập có thể thực hiện các biện pháp nhằm huy động nguồn lực là vốn đất đai.
Việc sử dụng vốn đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải bảo đảm tất cả các yêu cầu: Được cơ quan, người có thẩm quyền cho phép; không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục công lập được Nhà nước giao; không làm mất quyền sở hữu về tài sản công; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao; sử dụng tài sản đúng mục đích được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm; phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản; tính đủ khấu hao tài sản cố định, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác với Nhà nước theo quy định của pháp luật; Nhà nước không cấp kinh phí bảo dưỡng đối với tài sản công chỉ được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; thực hiện theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan[9].
Mặt khác, Luật đất đai năm 2024 cũng quy định: “Đối với đất đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thì được phép chủ động khai thác, sử dụng kết hợp đa mục đích theo phương án được cơ quan chủ quản phê duyệt phù hợp với quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; trường hợp có đầu tư xây dựng công trình trên đất phải phù hợp với pháp luật về xây dựng. Việc khai thác, sử dụng đất kết hợp đa mục đích phải được hạch toán theo quy định của pháp luật.” và “Đối với đất do đơn vị sự nghiệp công lập đang sử dụng mà có nhu cầu cho thuê, liên doanh, liên kết với tổ chức kinh tế thì phải có đề án sử dụng tài sản công vào mục đích cho thuê, liên doanh, liên kết được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.”[10]
Như vậy, việc lập đề án để sử dụng đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết là phải do cơ quan chủ quản phê duyệt; các cơ sở giáo dục công lập chỉ tổ chức thực hiện theo đề án đã được phê duyệt, có nghĩa vụ cập nhật thông tin việc sử dụng đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết và thực hiện đầy đủ tất cả các yêu cầu tại Điều 55 của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017. Số tiền thu được từ hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải được hạch toán riêng và kế toán đầy đủ theo quy định của pháp luật về kế toán và được quản lý, sử dụng để chi trả các chi phí liên quan, trả nợ vốn vay (nếu có), vốn đã huy động được (nếu có), thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; phần còn lại được quản lý, sử dụng theo quy định và cần được luật hóa.
Trong xu hướng tự chủ tài chính hiện nay theo tinh thần Nghị định số 60/2021/NĐ-CP và các văn bản luật liên quan Nhà nước luôn ưu tiên, ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng và chính sách khác để phát triển hoạt động tự chủ, đặc biệt là tự chủ tài chính. Quyền tự chủ tài chính, tài sản trong đó có đất đai với mong muốn thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng và chính sách khác để có lợi cho người học và nhu cầu xã hội.
2.3. Thực hiện quyền sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập
Hiện nay, trong thực tế các cơ sở giáo dục công lập[11] đang sử dụng một nguồn vốn là đất đai rất lớn, cả về diện tích, vị trí và nhất là giá trị. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay vẫn là chưa phát huy hết giá trị kinh tế đất của các cơ sở giáo công lập. Những rào cản của pháp luật như: luật đất đai, pháp luật về đầu tư công, luật quản lý tài sản công, luật ngân sách nhà nước… đã làm cho đất (trụ sở) của các cơ sở giáo dục công lập như “một giá trị đang nằm ngủ”[12] chưa khai thác hết đầy đủ tiềm năng. Hiện trạng sử dụng đất chưa hiệu quả, thậm chí rất lãng phí do bỏ hoang, không dám, không thể khai thác công năng của đất đai…  thường các cơ sở giáo dục công lập lúc đầu chọn địa điểm đặt trụ sở hay “tranh thủ” được vị trí đẹp, đắc địa, diện tích rộng do nhiều nguyên nhân và đất của các cơ sở giáo dục công lập quản lý, sử dụng cơ bản là ở hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Xu thế tự chủ tài chính hoàn toàn trong giáo dục, nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước phân bổ cho các cơ sở giáo dục công lập ngày càng sẽ bị cắt giảm, đến giảm hẵn, thì từ những việc tuyển sinh, tuyển dụng nhân sự, tu bổ cơ sở vật chất, tăng hoạt động phục vụ công tác đào tạo, đến trang thiết bị dạy – học… chắc chắn gặp khó khăn do nhu cần xã hội ngày càng cao cả về tinh thần và vật chất.
Như vậy, nếu phát huy được nguồn lực đất đai – xem như một loại vốn rất đặc biệt, vận dụng được nó và thu lợi từ nó trên cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo cho các cơ sở giáo dục công lập, từ đó sẽ tạo ra những tác động tích cực, dẫn đến một phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, một phần các cơ sở giáo dục công lập cũng được “cắt phao”, “cởi trói”, có điều kiện tự tạo nguồn thu, từ đó tăng sức mạnh cạnh tranh với các đơn vị, tổ chức đào tạo khác ngoài Nhà nước và thực sự lợi ích có được cũng dành cho người học và xã hội.
Mặt khác, mặc dù việc tự chủ hoàn toàn về tài chính trong giáo dục sẽ được hoàn thiện. Tuy vậy, việc tự chủ nguồn lực về đất đai cho các cơ sở giáo dục công lập hiện nay vẫn còn nằm rải rác trong các văn bản như: Luật Đất đai, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Ngân sách Nhà nước, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành… Chính vì vậy, việc tự chủ nguồn lực như: cơ sở vật chất, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng để tạo cơ hội hợp tác, đào tạo, chuyển giao công nghệ, thuê, cho thuê, liên doanh, liên kết… đặc biệt nhất là khai thác vốn đất đai gặp rất nhiều khó khăn.
Cùng với đó, tâm lý thận trọng, đã quen “bầu sữa ngân sách” dẫn đến thiếu tích cực, chủ động với tự chủ hàn toàn về tài chính ở các cơ sở giáo dục công lập. Vì vậy, các cơ sở giáo dục công lập lựa chọn hướng tiếp cận tự chủ từng bước và rất ít quan tâm đến kinh tế đất với tư cách đất đai là vốn - vốn là đất đai. Song song đó,  do bị ràng buộc vì quá nhiều quy định bởi nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau, nên khi triển khai thực hiện tự chủ tài chính, hạ tầng cơ sở, học phí đặc biệt là sử dụng đất đai,… đã vấp phải những vướng mắc, thậm chí có sai lầm trong thực hiện, điều hành của các cơ sở giáo dục công lập và chưa quan tâm đến kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập chưa thực sự linh động.
3. Một số đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính
Từ thực trạng tự chủ hoàn toàn về tài chính; quản lý nhà nước, sử dụng vốn đất đai của các cơ sở giáo dục công lập, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập:
Một là, Bộ trưởng các Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường cần sớm xây dựng những thông tư để có hướng dẫn cụ thể việc trong quản lý Nhà nước về kinh tế đất, cũng như thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính trong giáo dục và phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2024. Từ đó, vốn đất đai được nhìn nhận với quan niệm “kinh tế đất”, để sớm tổ chức thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập hiệu quả hơn, làm hình thành các mô hình liên kết, khai thác, liên doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Hai là, các cơ sở giáo dục công lập phải quan tâm việc nâng cao chất lượng, có sáng tạo trong quản lý tài sản công, đặc biệt là chủ động thực hiện quyền sử dụng đất đai. Rà soát sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý tài chính, tài sản công, đất đai, xác định đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng đơn vị. Củng cố bộ phận tham mưu, tư vấn có chất lượng cho Hội đồng trường, Hiệu trưởng, người đứng đầu các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính ra những quyết định đúng quy định của pháp luật đến tài chính, tài sản công, nhất là đất đai làm phát huy tối đa giá trị của đất đai với tư cách đất đai là vốn và là nguồn lực trong lĩnh vực tài chính vô cùng “hùng mạnh”.
Ba là, cần tránh việc hành chính hóa các nhiệm vụ được giao, phải có sự tách bạch  giữa nhiệm vụ được giao (nếu có) với hoạt động giáo dục và đạo tạo mang tính dịch vụ của các cơ sở giáo dục công lập. Ở góc độ hoạt động dịch vụ cần xem như hoạt động kinh doanh và có tính cạnh tranh nhằm đem lại lợi ích chính đáng cho người học và xã hội, các đề án sử dụng tài sản công, trong đó có đất đai, rất cần được các cơ quan chủ quản, ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan tâm hướng dẫn “cởi trói”, “giảm tải”, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực và nhìn rõ hơn về giá trị của quyền sử dụng đất với khái niệm “kinh tế đất”.
ThS. Nguyễn Duy Quốc
(Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 407, tháng 6 năm 2024, tr3-6).
 

[1] xem điểm a khoản 1 Điều 4 của Luật đất đai năm 2024.
[2] khoản 3 Điều 30 của Luật đất đai năm 2024.
[3] tại điểm d khoản 3 Điều 9 Luật đất đai năm 2024.
[4] như các hoạt động: văn hóa, thể thao, giải trí, du lịch, chăn nuôi, trồng trọt, các lĩnh vực nộng nghiệp, các hoạt động bổ trợ cho hoạt động giáo dục - đào tạo như: vườn nghiên cứu, vườn ươm giống vật nuôi, cây trồng, xây dựng cảnh quan công cộng, các trung tâm học thuật,… hoặc hoạt động thương mại, kinh doanh… 
[5] là một loại hình đơn vị sự nghiệp công lập.
[6] Hernando de Soto – Bí ẩn của vốn (2023), Nxb Chính trị quốc gia sự thật (xuất bản lần thứ 5), tr.64.
[7] đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022 – gọi là Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
[8] Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
[9] Điều 55, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
[10] Điểm a,b khoản 2 Điều 34 Luật đất đai năm 2024.
[11] tính đến năm 2018: cả nước có 394 trường cao đẳng (307 trường cao đẳng công lập, 83 trường tư thục, 4 trường có vốn đầu tư nước ngoài), có 515 trường trung cấp (295 trường công lập, 219 trường tư thục, 1 trường có vốn đầu tư nước ngoài), có 1045 trung tâm giáo dụ nghề nghiệp (697 trung tâm công lập, 346  trung tâm tư thục, 2 trung tâm có vốn đầu tư nước ngoài) – xem: Trương Anh Dũng – Tổng cục giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) – “thực trạng và định hướng sắp xếp cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian tới”, Chuyên trang giáo dục nghề nghiệp, ngày 29/10/2019. Và khoảng 326 trường đại học và cao đẳng khác (https://eduplus.edu.vn/danh-sach-cac-truong-dai-hoc-tren-toan-quoc/ cập nhật: ngày 05/5/2024).
[12] Hernando de Soto – Bí ẩn của vốn (2023), Nxb Chính trị quốc gia sự thật (xuất bản lần thứ 5), tr.64.
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây