Ảnh nguồn: https://baotintuc.vn
1. Đặt vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời để hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và độc lập dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Là người cả cuộc đời vì nước, vì dân nên ngay cả trong những phút cuối của cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng quan tâm, lo lắng công việc của đất nước, hạnh phúc của Nhân dân. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu. Đó là những tình cảm thắm thiết, niềm tin sắc son của Người cùng với những lời căn dặn của người cha, người thầy, người lãnh tụ thiên tài của cách mạng với Đảng ta, Nhân dân ta và thế hệ mai sau. Bản Di chúc thiêng liêng của Người đã trở thành tài sản tinh thần quý giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cốt yếu có giá trị định hướng lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Di chúc đề cao vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện, phong phú, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Nội dung
2.1. Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Bác
Trong Di chúc vấn đề đầu tiên Người đề cập đó là vấn đề về Đảng: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG” [2; tr.621]. Qua đó thể hiện sự quan tâm sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như tầm quan trọng của việc tổ chức, xây dựng Đảng trong sạch, vũng mạnh – nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Người luôn xác định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề then chốt và là việc làm thường xuyên, vì vậy, Di chúc của Người đã đề cập các nội dung cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là những đúc kết kinh nghiệm và những định hướng chủ đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở đến tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào những nội dung như sau:
Thứ nhất, xây dựng khối đại đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trong Di chúc, Người viết:
“TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [2; tr.621-tr.622].
Theo Bác do có sự đoàn kết, nhất trí một lòng của toàn thề cán bộ, đảng viên để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Toàn Đảng và từng cán bộ, đảng viên chỉ có đoàn kết nhất trí để phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân thì khi đó mới tập hợp được nhân dân, vượt qua những khó khăn, gian khổ để giành những thắng lợi vẻ vang nhất. Bác đã khái quát đoàn kết là một truyền thống – một truyền thống cực kỳ quý báu và giữ gìn truyền thống ấy là công việc vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự đoàn kết thống nhất cao từ Trung ương đến các chi bộ. Qua đó thể hiện tư tưởng nhất quán của Người trong xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Người khẳng định: “đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” do vậy việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Với Người, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thể hiện trên tất cả các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức. Cách mạng càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề thì sự đoàn kết thống nhất trong tư tưởng và hành động của Đảng càng quan trọng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nên trong quá trình cách mạng, ngay từ khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến lúc Người về cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất trong Đảng góp phần xây dựng Đảng vững mạnh.
Thứ hai, về thực hành dân chủ trong Đảng.
Trong Di chúc, Người đề cập đến vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng tuy ngắn gọn nhưng rất súc tích. Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên” [2; tr.622]. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hành dân chủ thực sự, tránh hình thức và phải thực hiện thường xuyên. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh của toàn thể đảng viên qua đó tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và huy động được sức mạnh của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Vì thế, dân chủ trong Đảng thực chất cũng là quyền làm chủ của mỗi đảng viên trong mọi hoạt động của Đảng, là sự bình đẳng của tất cả đảng viên trước Điều lệ và nghị quyết của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ trong Đảng không đơn thuần là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà mọi hoạt động của Đảng đều phải dựa trên nền tảng dân chủ và hướng tới mục tiêu dân chủ. Trước hết, tính dân chủ phải được thể hiện trong mục tiêu, lý tưởng của Đảng là vì nước, vì dân. Dân chủ trong Đảng còn là sự bình đẳng giữa cấp trên và cấp dưới; người lãnh đạo cần phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, kể cả các ý kiến trái chiều. tính dân chủ thể hiện trong mọi nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nếu tính dân chủ được tuân thủ và thực hành triệt để thì dân chủ trong Đảng sẽ được nâng cao.
Thứ ba, về tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Phê bình và sữa chữa, tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều trong những bài nói, bài viết của Người. Trong Di chúc, Người cũng đề cập vấn đề tự phê bình và phê bình: “nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” [2; tr.622]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bảo đảm công khai, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên, gắn với sửa chữa, biểu dương, khen thưởng thì mới phát huy được tác dụng. Trong đó, bảo đảm công khai, dân chủ là một trong những yếu tố quan trọng, làm cho việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình vừa nghiêm túc, vừa đạt hiệu quả cao.
Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên về mục đích của tự phê bình và phê bình là để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn phê bình đạt kết quả tốt, thì cán bộ, đảng viên phải có động cơ phê bình trong sáng, thái độ phê bình chân tình, phương pháp phê bình đúng đắn. Khi tiến hành phê bình, phải kiên quyết phản đối thái độ phê bình thiếu xây dựng, phương pháp phê bình gay gắt theo kiểu “đao to búa lớn”, “quy chụp vu cáo”, lợi dụng phê bình để moi móc, công kích. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ dẫn rằng, phê bình phải sao cho “thấu tình, đạt lý”, phải tiến hành thường xuyên, tiến hành triệt để, chỉ rõ nguyên nhân, chỉ rõ biện pháp cụ thể để sửa chữa. Từ đó, cổ vũ đồng chí mình phát huy những ưu điểm, những cách làm hay, những việc làm tốt, đồng thời giúp nhau tìm ra biện pháp khắc phục khuyết điểm, hạn chế, sai lầm để cùng nhau ngày càng tiến bộ.
Thứ tư, về giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng để mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [2; tr.622].
Với nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã nhìn nhận rõ tính hai mặt vốn có của một Đảng cầm quyền: Một mặt, khi cầm quyền Đảng có chủ trương, chính sách, điều kiện để huy động sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, khi cán bộ, đảng viên – người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, sa vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực; lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi của cá nhân... thì lúc đó trở thành nguy cơ cho Đảng, đánh mất niềm tin của nhân dân. Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi và liên tục tẩy trừ mọi tệ nạn do sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên gây ra, trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội.
Mỗi cán bộ đảng viên phải nhận thức được vai trò, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình với Đảng và Nhân dân. Song, nếu chỉ dừng lại nhận thức thì chưa đủ mà phải hiện thực hóa nhận thức đó trong hành động, “phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Theo Người, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết cần chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, mục tiêu lý tưởng cách mạng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đây là điều kiện, là nền tảng để hình thành, phát triển và củng cố đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua đấu tranh cách mạng, thông qua phê bình, tự phê bình.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp tư tưởng và tổ chức, lý luận và thực tiễn, giữa giáo dục nâng cao nhận thức lý luận, quan điểm tư tưởng với rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và phải được tiến hành trong một tổ chức chặt chẽ. Nếu xem nhẹ, buông lỏng một mặt nào đó hoặc tách rời các mặt đó với nhau thì công tác giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên không thể có chất lượng, hiệu quả cao được.
2.2. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Quán triệt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc, Đảng ta luôn xác định xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng vừa thường xuyên, vừa cấp bách và lâu dài. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và các Nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gắn với Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”...
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được nhiều kết quả rõ rệt, toàn diện trên tất cả các mặt: xây dựng Đảng về chính trị; xây dựng Đảng về tư tưởng; xây dựng Đảng về dạo đức; xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên; công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ; công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng; công tác dân vận và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố: sự cám dỗ của lợi ích vật chất, mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, sự tha hóa quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức chưa chặt chẽ làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
” [1; tr.92].
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Người cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp trong toàn hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; chú trọng, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
Hai là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế phòng ngừa sự tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm” để cán bộ, đảng viên không dám, không thể, không cần, không muốn tham nhũng.
Ba là, chú trọng việc nhân rộng các gương điển hình trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về tham gia xây dựng Đảng, về học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, để lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng những mô hình, cách làm hay, hiệu quả trong công tác xây dựng Đảng.
Bốn là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật để làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị.
Năm là, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, trong giám sát cán bộ, đảng viên nói riêng, để “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ là nằm trong nghị quyết, trên khẩu hiệu mà là hiện thực sinh động trong thực tiễn. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nắm chắc tình hình cơ sở; lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ.
3. Kết vấn đề
Những nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập rất sâu sắc trong nhiều bài nói, bài viết của Người. Những tư tưởng đó phản ánh rõ nét quá trình hình thành, sự cụ thể hóa và được Người trình bày một cách hệ thống, để cuối cùng được nêu lên một cách cô đọng, tập trung nhất trong Di chúc. Thời gian có trôi qua song những di huấn của Người về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc đã và đang giải quyết những yêu cầu của cách mạng trong tình hình hiện nay và sẽ còn giá trị mãi mãi cho các thế hệ sau.