Bàn về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp

Thứ năm - 22/06/2023 02:45 3.149 0
1. Dẫn nhập
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một bộ máy nhà nước đặc trưng vừa mang tính kế thừa, tiếp thu các giá trị phổ biến của nền dân chủ thế giới vừa rất phù hợp với đặc điểm tình hình của nước Việt Nam. Theo đó, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 được thiết kế trên cơ sở phân chia quyền lực uyển chuyển giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mô hình bộ máy nhà nước này không có một cơ quan nào độc quyền hay có quyền đứng trên cơ quan khác, bao gồm: Nghị viện nhân dân, Chính phủ và hệ thống cơ quan Toà án. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình bộ máy nhà nước nhằm mục đích thực hiện đầy đủ và đạt hiệu quả quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân, cho đất nước, kế thừa những thành quả đó, qua các giai đoạn lập hiến, lập pháp của nước ta cũng đã thể hiện rõ ràng và cụ thể quan điểm tiếp tục thực hiện quyền lực nhà nước thật hiệu quả nhằm phục vụ lợi ích và vì lợi ích nhân dân. Tuy nhiên, khi các quan hệ xã hội ngày một phức tạp và càng đa dạng hơn thì việc cần thiết phải bổ sung, sửa đổi phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cho phù hợp tính hình mới, một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết là tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước thật hiệu quả mà Đảng và nhà nước ta đã hoạch định là phải phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Mấy vấn đề lí luận về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp
2.1. Quyền lực nhà nước
Quyền lực là một khái niệm vô cùng phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy vậy, có thể hiểu quyền lực Nhà nước là khả năng của Nhà nước để buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng Nhà nước. Cũng như các loại quyền lực khác, quyền lực Nhà nước cũng luôn tồn tại trong những mối quan hệ xác định: quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể của quyền lực, các cá nhân, tổ chức trong xã hội là đối tượng của quyền lực ấy. Là chủ thể của quyền lực, Nhà nước có quyền ban hành những mệnh lệnh cho phép các cá nhân, tổ chức trong xã hội được làm gì, bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào hay không cho họ làm gì. Các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng vô điều kiện những mệnh lệnh đó. “Khả năng của Nhà nước” được hiểu là sức mạnh bạo lực của Nhà nước, sức mạnh vật chất, uy tín, vị thế trong xã hội hay khả năng vận động quần chúng... Tuy nhiên, sự phục tùng Nhà nước không phải khi nào cũng chỉ dựa trên những “khả năng” từ phía Nhà nước do quyền lực nhà nước có những dấu hiệu đặc trưng cơ bản, bao gồm: (i)  quyền lực Nhà nước là quyền lực công cộng; (ii) quyền lực Nhà nước là quyền lực chính trị; (iii) quyền lực Nhà nước vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội; (iv) quyền lực Nhà nước được thực thi bởi bộ máy Nhà nước, một bộ máy chuyên nghiệp, chuyên thực thi quyền lực; (v) quyền lực Nhà nước có mối liên hệ rất chặt chẽ với pháp luật. Có thể nói, không có pháp luật thì không thể tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước trên phạm vi toàn xã hội, nhờ có pháp luật mà những hiện tượng lạm quyền hay thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực Nhà nước bị hạn chế và từng bước được loại trừ. Ngược lại, quyền lực Nhà nước là nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế theo cơ chế vận hành chuyên biệt gồm: Thứ nhất, thể hiện ý chí Nhà nước; thứ hai, tổ chức thực hiện nội dung ý chí Nhà nước; thứ ba, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung ý chí Nhà nước và xử lý khi có vi phạm xảy ra.
Nói một cách chung nhất, quyền lực Nhà nước được vận hành theo cơ chế: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ chế này nhằm chống chuyên quyền, độc đoán, muốn có tự do, bình đẳng thì lập pháp, hành pháp, tư pháp, phải thuộc về ba cơ quan khác nhau, phải do ba cơ quan khác nhau đảm nhiệm. Sự phân biệt lập pháp, hành pháp, tư pháp, hoàn toàn không phải là sự phân chia quyền lực, đó chỉ là sự “phân công lao động quyền lực”, là phân chia các mắt, các khâu trong quá trình thực thi quyền lực Nhà nước và mỗi cơ quan chuyên đảm nhận một mắt, khâu nhất định nhằm bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi có hiệu quả nhất.
2.2. Quyền lực nhà nước là thống nhất và có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp
- Ở Việt Nam quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó không phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào một nhánh quyền lực nào theo kiểu phân lập quyền lực mà là sự thống nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Tuy nhiên, xét theo cơ chế tổ chức, quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng thẩm quyền cao nhất và lớn nhất, phải nằm trong tay những cơ quan đại diện cho nhân dân vì xét về nguồn cội, đó là quyền lực của nhân dân và nhân dân giao quyền lực cho các đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Một trong những quan điểm cơ bản về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quan điểm về quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công, phối hợp và kiểm soát là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật tổ chức bộ máy Nhà nước thì tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Xuất phát từ “các cơ quan quyền lực Nhà nước” nói trên mà hàng loạt các cơ quan khác của Nhà nước được thành lập tạo thành hệ thống các cơ quan Nhà nước để cùng thực hiện quyền lực Nhà nước.
Để bảo đảm việc quản lý toàn diện, thống nhất các mặt quan trọng của đời sống xã hội, hệ thống các cơ quan Nhà nước được thành lập từ Trung ương tới địa phương, có sự kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ. Các cơ quan Nhà nước ở các địa phương thay mặt cho nhân dân cả nước thực hiện quyền lực Nhà nước ở phạm vi địa phương, đồng thời, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Điều 113 Hiến pháp 2013 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân”, mà cơ quan Nhà nước cao nhất là Quốc hội. Bằng cách tổ chức như thế, quyền lực Nhà nước ở Việt Nam luôn bảo đảm sự thống nhất, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, sự thống nhất của quyền lực Nhà nước bao gồm cả sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thành một chỉnh thể thống nhất để thực hiện quyền lực Nhà nước.
- Phân công thực hiện quyền lực nhà nước là giao cho một hoặc từng nhóm các cơ quan nhà nước thực hiện một quyền lực (chức năng quyền lực) nào đó có tính chất chuyên nghiệp. Sự chuyên nghiệp hóa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm nâng cao năng suất lao động trong hoạt động quản lý nhà nước. Bộ máy nhà nước gồm rất nhiều cơ quan có vị trí, vai trò, tính chất khác nhau nên tất yếu phải có sự phân công cụ thể cho mỗi cơ quan nhà nước chủ yếu đảm nhiệm những chức năng nhiệm vụ quyền hạn nhất định của nhà nước.
Việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước cũng hạn chế được sự độc đoán, chuyên quyền, sự lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước. Bởi, trong những nguy cơ mang tính phổ biến của những người, những cơ quan cầm quyền là dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền. Khi đã có sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước họ không còn, hoặc sẽ ít có cơ hội để lạm quyền, bởi khi cơ quan này lạm quyền thì sẽ ảnh hưởng tới quyền lực  của cơ quan khác. Việc phân biệt ra các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp..., không đơn thuần chỉ là sự phân công “lao động quyền lực” mà còn có ý nghĩa để thực thi quyền lực được bảo đảm khách quan, hiệu quả (giám sát, kiểm soát, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lực), nhất là đối với thực thi quyền hành pháp, một loại quyền lực trực tiếp ảnh hưởng tới tự do, dân chủ, tới lợi ích của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Sự phân công càng hợp lý, khoa học thì công việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước còn tạo ra sự chủ động, linh hoạt, năng động của mỗi cơ quan nhà nước cũng như cả bộ máy nhà nước đối với những công việc được giao. Mỗi cơ quan phải chủ động, tự giác thực hiện tốt phần công việc được giao, đó không chỉ là nhiệm vụ, quyền hạn, mà còn là bổn phận, trách nhiệm, đồng thời cũng là danh dự, niềm tự hào của mỗi cơ quan nhà nước trước các cơ quan nhà nước khác và trước nhân dân.
Sự phân công thực hiện quyền lực luôn diễn ra theo chiều ngang giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp, theo chiều dọc giữa cùng một loại cơ quan ở các cấp khác nhau. Trên cơ sở sự phân công hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong pháp luật, sẽ là tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp, trách nhiệm, hiệu quả trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước trên thực tế.
Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước cũng chỉ mang tính chất tương đối (không tách biệt một cách tuyệt đối), nghĩa là, làm sao để cơ quan được phân công thực hiện một quyền lực nào đó vừa có sự độc lập tương đối, bảo đảm tính chuyên nghiệp đối với công việc được giao, vừa giữ được mối liên hệ, sự ràng buộc, chế ước từ phía các cơ quan khác trong một cơ chế thống nhất của bộ máy nhà nước. Do vậy, thông thường, người ta giao cho một cơ quan chủ yếu thực hiện một quyền nào đó, còn các cơ quan khác cùng tham gia hỗ trợ cho cơ quan nói trên trong việc thực hiện quyền lực đó. Chẳng hạn, việc thực hiện quyền lập pháp được giao cho Quốc hội thực hiện chủ yếu, còn các cơ quan khác sẽ hỗ trợ thêm cho Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, đối với các quyền lực khác cũng được phân công tương tự như vậy.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh nguy cơ lạm dụng quyền lực, đồng thời, sự phối hợp còn có tác dụng hạn chế hoặc tránh được sự xung đột quyền lực. Do vậy, pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước này có thể đảm nhận mang tính trợ giúp một phần công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan chức năng khác khi có cơ sở cho rằng cơ quan trợ giúp cho điều kiện thực hiện công việc đó tốt hơn so với cơ quan cần sự trợ giúp. Chẳng hạn, sự trợ giúp của Chính phủ đối với Quốc hội trong việc soạn thảo các dự án luật giúp Quốc hội thực hiện tốt hơn quyền lập pháp. Sự phối hợp còn tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, hạn chế những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động của mỗi cơ quan.
- Bất kỳ bộ máy nhà nước nào trong quá trình tổ chức và hoạt động cũng phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, giám sát quyền lực. Một trong những nhu cầu quan trọng dang đặt ra một cách bức thiết hiện nay trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân là vấn đề kiểm soát, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, nghĩa là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động, trong các quyết định của các cơ quan nhà nước là một trong những phương hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Và cơ chế kiểm soát, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước chỉ có hiệu quả khi các quy định pháp luật liên quan đến sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được thực thi trên thực tế. Muốn vậy, nhà nước phải đẩy mạnh việc rà soát và quy định chặt chẽ, chính xác về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nước trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất.
Đã đến lúc phải coi quyền giám sát như một loại “lực lượng đặc biệt” trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất. Thực hiện việc phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện có hiệu quả quyền giám sát. Trong điều kiện hiện nay, cần nghiên cứu, xây dựng và củng cố các cơ quan, các bộ phận chuyên trách chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kiểm soát để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong quyết định và hành động của các cơ quan công quyền. Nên có các cơ quan chuyên trách giúp việc cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát trong nội bộ mỗi cơ quan và kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước.
2.3. Đảm bảo hoạt động có hiệu quả nguyên tắc của quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước là nền tảng, sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Xã hội ngày càng phát triển, công việc của nhà nước ngày một nhiều thêm nên không thể lường trước được tất cả các tình huống của cuộc sống sẽ xảy ra mà Nhà nước cần can thiệp để có thể khắc phục một cách triệt để được. Do vậy, thực tiễn có rất nhiều tình huống mà các cơ quan nhà nước phải chủ động giải quyết theo tinh thần hợp lý vì lợi ích chung của cả cộng đồng và của mỗi cá nhân khi cần đến sự giúp đỡ của nhà nước. Chẳng hạn, các cơ quan nhà nước phải chủ động áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết những trường hợp pháp luật chưa hoặc không dự liệu được trước, tránh hiện tượng các cơ quan, công chức nhà nước từ chối thực hiện những công việc vì lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp và người dân.
Cần thiết phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ các hoạt động của nhà nước. Không chỉ phân công phối hợp một cách hợp lý, hiệu quả, khoa học giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, mà còn cần có sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng trong lãnh đạo, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước thì vấn đề tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước mới thực sự có hiệu quả. Các mối quan hệ phối hợp đó cũng cần được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Cần thiết đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân; cần nghiên cứu kỹ lưỡng, nhận thức chính xác về quyền lực nhà nước để tìm ra được một cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm sự kiểm soát, giám sát của nhân dân đối với tất cả mọi cơ quan nhà nước, kể cả Quốc hội. Từng bước đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ và các cơ quan khác của nhà nước.
3. Một số giải pháp hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp
Thứ nhất, phải thực hiện đầy đủ cơ chế bãi miễn đại biểu của cử tri - một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân
Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể hiện bản chất ưu việt và mang tính chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu không được sự tín nhiệm của nhân dân thì nhân dân bãi miễn. Dân có quyền bầu, thì cũng có quyền bãi miễn những người phụ lòng tin của mình. Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai hình thức bãi miễn đại biểu. Đó là, đối với đại biểu Quốc hội thì bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm; Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì bị cư tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm.
Theo đó, đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân tùy theo mức độ sai phạm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi miễn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc tỉnh nơi có đại biểu bị bãi miễn. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử tri ở đơn vị bầu ra đại biểu ấy bãi miễn theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Tuy nhiên, cần phải cụ thể hóa hơn nữa quy trình thủ tục bãi miễn, nhân dân mới có điều kiện để thực hiện. Khi đó, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng hình thức bãi miễn mới thực chất.
Thứ hai, phải tiếp tục tăng cường và sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng - phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân
Trong Nhà nước dân chủ và pháp quyền, các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền thanh, truyền hình có vai trò to lớn trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Bởi, thông qua các phương tiện này, một mặt nhân dân được cung cấp những thông tin có giá trị và liên tục về các hoạt động của Nhà nước, của những người được nhân dân giao quyền, ủy quyền. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải công khai, minh bạch các hoạt động của mình. Một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Nhà nước ta đang hoàn thiện phải có trách nhiệm trong việc cung cấp những quyết định và các hành vi của các quan chức trong bộ máy nhà nước. Việc được tiếp cận thông tin cho phép công dân chất vấn, đánh giá, tạo dư luận xã hội đối với các hoạt động của nhà nước mà họ cho là không đúng, không hợp lòng dân. Việc người dân được tiếp cận thông tin góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái của quan chức nhà nước, nâng cao trách nhiệm của họ trước nhân dân. Mặt khác, qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhân dân lại có diễn đàn bày tỏ nguyện vọng, suy nghĩ của mình. Các phóng viên, nhà báo với những phương tiện ngày càng hiện đại có điều kiện khả năng phát hiện và phản ánh ý nguyện của nhân dân, của xã hội cho Nhà nước. Chính vì vai trò quan trọng của bộ máy công luận nói trên mà nó trở thành một công cụ đắc lực trong việc kiểm soát quyền lực.
Thứ ba, thực hiện đúng và đầy đủ cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Nhân dân và Nhà nước
Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân và Nhà nước là cơ chế bên ngoài tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm các yếu tố có quan hệ tác động qua lại với nhau một cách chặt chẽ sau:
(i) Các nguyên tắc, các quy định ghi nhận việc giao quyền của nhân dân cho Nhà nước thể hiện trong Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước... Đây là yếu tố về cơ sở pháp lý thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân và Nhà nước. Đây cũng chính là căn cứ cho quá trình tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước theo các quy định được nhân dân giao quyền và ủy quyền và trong giới hạn đó nhân dân thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước của mình.
(ii) Hệ thống các hình thức, phương thức và quy tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Nhân dân và Nhà nước. Đó là các hình thức, phương thức thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trưng cầu dân ý, bầu cử, bãi miễn đại biểu, phương tiện thông tin đại chúng. Đây là các hình thức, các phương thức thực hiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Các hình thức, phương thức này không những được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn phải được cụ thể hóa trong các đạo luật thì nhân dân mới có điều kiện trở thành chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước trong việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tóm lại, Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề có phạm vi nghiên cứu rất rộng, phức tạp liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo; quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức bộ máy nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền lực nhà nước ở địa phương. Vấn đề này đòi hỏi vừa phải nghiên cứu một cách có hệ thống, tìm kiếm các giá trị phổ quát của nhân loại, lại vừa phải tập trung làm rõ tính chất, đặc điểm, thực trạng phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
 
ThS. Nguyễn Duy Quốc
-----

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội - 2005.
2- Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2006.
3- Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI – NXB Chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội – 2011.
4- Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến Pháp của Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội – 2005.
5- PGS,TS. Nguyễn Minh Đoan, “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 2/2007.
6- PGS,TS. Lê Minh Thông Đổi mới hoàn thiện Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và nhân dân ở Việt nam hiện nay – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội – 2011.
7- GS,TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên) – Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước – một số vấn đề lí luận và thực tiễn – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội – 2009.
8- PGS,TS. Nguyễn Minh Đoan, TS. Bùi Thị Đào, Ths. Trần ngọc Định, TS. Trần Thị Hiền, TS. Lê Vương Long, Ths Nguyễn Văn Năm, Ths Bùi Xuân Phái – một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội – 2009.
9- GS,TS. Trần Ngọc Đường – một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội – 2011.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây