Đối thoại Biển lần thứ 13.
Phát biểu khai mạc Đối thoại, TS. Nguyễn Hùng Sơn, Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao nhắc lại lại quá trình đàm phán thông qua Hiệp định trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại khu vực nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (BBNJ).
Theo TS. Nguyễn Hùng Sơn, BBNJ là dấu mốc mới của luật pháp quốc tế, một chiến thắng quan trọng của chủ nghĩa đa phương. Tháng 9/2023, dự thảo Hiệp định đã được mở ký với mục tiêu sẽ có hiệu lực trong thời gian sớm nhất. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký BBNJ và đánh giá cao tầm quan trọng của Hiệp định này.
Năm 2024 đánh dấu kỷ niệm 30 năm UNCLOS chính thức có hiệu lực, kể từ đó UNCLOS được công nhận là “Hiến pháp của biển và đại dương”. Bên cạnh việc đặt ra chế độ pháp lý cho các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, UNCLOS còn thiết lập khuôn khổ pháp lý cho các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, như Biển cả với nguyên tắc “tự do biển cả” và Vùng với nguyên tắc “di sản chung của nhân loại”.
Khẳng định UNCLOS sau 30 năm vẫn là "ngọn đèn soi sáng" cho các hoạt động trên biển và đại dương, TS. Nguyễn Hùng Sơn mong muốn Đối thoại Biển lần thứ 13 sẽ giúp các bên liên quan hiểu nhiều hơn về BBNJ và tìm được sự thấu hiểu chung giữa các nhà khoa học, luật gia để các nước Đông Nam Á có thể chuẩn bị quá trình chuẩn bị và triển khai BBNJ, đưa ra khuyến nghị mới để thúc đẩy hợp tác.
Trong bối cảnh đó, Đối thoại Biển lần thứ 13 hướng tới ba mục tiêu gồm: nâng cao nhận thức của cộng đồng về các khuôn khổ hiện có và các quy định mới về việc quản lý các vùng biển quốc tế nằm ngoài quyền tài phán quốc gia; (đánh giá các cơ hội và thách thức liên quan đến hợp tác thăm dò và bảo tồn tại các vùng biển quốc tế và đề xuất các khuyến nghị pháp lý và chính sách cho các quốc gia nhằm thúc đẩy tiềm năng hợp tác ở các vùng biển quốc tế.
Theo ông Florian Feyerabend, Trưởng đại diện Viện KAS tại Việt Nam, Đối thoại Biển lần thứ 13 có ý nghĩa quan trọng, là diễn đàn để các đại biểu thảo luận sâu sắc về khai thác vùng biển sâu, quản trị khu vực ngoài quyền tài phán của quốc gia, phát triển các nền tảng để thúc đẩy quan hệ hợp tác, xây dựng chính sách trong tương lai.
Đối thoại Biển lần thứ 13 bao gồm 4 phiên thảo luận với các chủ đề: Hiệp định BBNJ: Những nội dung chính và triển vọng (phiên 1) sẽ tập trung trao đổi và làm rõ các nội dung cơ bản của Hiệp định BBNJ, đồng thời thảo luận về cách thức Hiệp định này được áp dụng phù hợp với các công cụ pháp lý hiện hành khác; Triển vọng mới về các quy định khai thác đáy biển sâu (phiên 2); Các cơ hội và thách thức cho việc tăng cường hợp tác tại khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia (phiên 3); Hợp tác trong khai thác và bảo tồn tại khu vực ngoài quyền tài phán quốc gia: Các khuyến nghị về pháp lý và chính sách (phiên 4).
Sau gần hai thập kỷ thảo luận và đàm phán, Hiệp định BBNJ mới vừa được thông qua đã trở thành hiệp định thực thi thứ ba trong khuôn khổ UNCLOS. Hiệp định điều chỉnh các nhóm vấn đề quan trọng liên quan tới bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia như: Tài nguyên gen biển; các công cụ quản lý vùng (ABMT), bao gồm khu bảo tồn biển (MPA); đánh giá tác động môi trường; xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ; cũng như vận hành các cơ quan và thể chế.
PGS.TS Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông (Học viện Ngoại giao) nhấn mạnh có 4 mảng BBNJ có thể hỗ trợ triển khai UNCLOS trong thời gian tới, bao gồm: BBNJ đưa ra các định nghĩa quan trọng; BBNJ quy định các trọng trách hợp tác về tài nguyên biển hay chuyển giao công nghệ; cơ chế clearing house – cung cấp thông tin và tạo điều kiện cho hợp tác và cuối cùng là cơ chế giám sát định kỳ cũng như nâng cao năng lực.
Còn PGS.TS Hazmi Rusli, Đại học Sains Islam, Malasyia cho rằng BBNJ đã đưa ra những công cụ và nghiên cứu quan trọng với những nhiệm vụ cụ thể nhằm phòng ngừa các vấn đề liên quan đến suy thoái môi trường. Hiệp ước đảm bảo các nỗ lực này không được thực hiện một cách riêng rẽ, tách bạch mà thúc đẩy hợp tác.
TS. Trần Thị Ngọc Sương, Đại học Đà Nẵng cũng khẳng định ý nghĩa của việc BBNJ đã đặt ra luật lệ với tiến trình cụ thể, chi tiết để thực thi UNCLOS, qua đó đánh giá được tác động của môi trường biển. Theo bà Trần Thị Ngọc Sương, điều quan trọng là các hoạt động của con người cần phải được đánh giá để giảm tác động xấu đến môi trường, đảm bảo tuân theo BBNJ. Trong BBNJ, các quốc gia có trách nhiệm thực hiện đánh giá tác động môi trường biển. Hoạt động nằm trong vùng tài phán quốc gia cũng có thể gây tác động môi trường tới ngoài vùng tài phán quốc gia.
“UNCLOS có những điều khoản nói về trách nhiệm các bên đối với môi trường nhưng BBNJ chi tiết hơn trong đánh giá ngưỡng tác động với môi trường, tiếp đó là quá trình tham vấn để đưa vào báo cáo, do đó, có thể giải quyết được những thách thức, đánh giá được tác động của những hoạt động ngoài vùng tài phán quốc gia”, TS. Trần Thị Ngọc Sương nhấn mạnh.
Bổ sung thêm về những điểm mới của BBNJ, TS. Sarah Lothian, Đại học Wollongong, Australia cho rằng phần 14 của BBNJ đã đánh giá chuyển giao công nghệ biển là một thành tố quan trọng, không thể thiếu trong việc thực hiện các thành tố khác. Do đó, các quốc gia cần tham gia, đóng góp trách nhiệm thông qua chia sẻ nghiên cứu, hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ.
“Chìa khóa ở đây là một tầm nhìn dài hạn cũng như đối thoại dài hạn giữa các bên liên quan đến chuyển giao công nghệ, tạo thuận lợi, hứng khởi cho các nước phát triển chuyển giao công nghệ biển cho các nước đang phát triển”, TS. Sarah Lothian nhấn mạnh, đồng thời bà cũng cho rằng có những điều khoản chỉ có trong BBNJ mà không có trong UNCLOS như báo cáo tiến độ triển khai để đảm bảo cơ chế minh bạch, do vậy, có thể thúc đẩy việc thực thi BBNJ giữa các quốc gia thành viên…/.
Tin, ảnh: Liêm Thanh