Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Thứ năm - 09/11/2023 22:57 115 0
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.


Toàn cảnh hội nghị Trung ương 8 khóa XIII

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐẢM BẢO PHÚC LỢI XÃ HỘI CHO NHÂN DÂN

Nội dung phúc lợi xã hội luôn được thể hiện rõ nét trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Tạo cơ sở phát triển sức sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác”(1)

Từ Đại hội IX đến Đại hội XI, với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, vấn đề đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân càng được đề cao. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đưa ra định hướng: “Không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”(2). Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với đảm bảo phúc lợi xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, nâng cao phúc lợi xã hội để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới(3)

Đến Đại hội XIII của Đảng, vấn đề phúc lợi xã hội được nhấn mạnh và đề cao khi Đảng ta chỉ rõ: “Quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội”; “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”; “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm”; “Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân”(4).

Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội của nước ta ngày càng được hoàn thiện và được triển khai thực hiện khá toàn diện, hiệu quả, góp phần quan trọng giảm thiểu sự bất bình đẳng trong xã hội, hỗ trợ được ngày càng nhiều hơn cho các nhóm yếu thế, nâng cao được đời sống cả về vật chất và tinh thần cho người lao động, củng cố được lòng tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.

Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII vừa qua, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về thực hiện chính sách xã hội, phúc lợi xã hội cho người dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định, trong 10 năm qua, đất nước ta đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ ta: kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển ổn định và hài hòa hơn. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên mọi miền đất nước được nâng lên. Việt Nam là quốc gia đi đầu trong việc giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, trong công tác quản lý và thực hiện phúc lợi xã hội vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém cần sớm có giải pháp khắc phục. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất ban hành Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng thực hiện phúc lợi xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nghị quyết lần này xác định rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện phúc lợi xã hội để hướng tới toàn dân được hưởng phúc lợi xã hội, bảo đảm toàn diện, công bằng, hiện đại, bao trùm, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân(5).

Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện phúc lợi xã hội mà Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) đề cập nổi lên một số vấn đề như: Công cuộc xóa đói, giảm nghèo tập trung vào các vùng, các đối tượng khó khăn nhất chưa đáp ứng như kỳ vọng; một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp. Những rủi ro về kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên… tác động tiêu cực đến đời sống của nhân dân. Chính vì vậy, cần phải có nhận thức mới, đầy đủ hơn về phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao. Do đó, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã đặt ra yêu cầu:

Một là, cần khẳng định việc bảo đảm phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các cơ chế chính sách và nguồn lực của mình, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm phúc lợi xã hội cho nhân dân. Nhà nước thực hiện tốt chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện việc cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về phúc lợi xã hội, coi việc thực hiện nhiệm vụ này là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.

Hai là, hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hóa cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ giúp kịp thời, hiệu quả trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của người dân, vừa góp phần quan trọng thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Ba là, xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội đảm bảo đa tầng, linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận với thông lệ quốc tế.

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trình bày tham luận về

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trình bày tham luận về "Quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội" tại Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

HIỆN THỰC HÓA CÁC MỤC TIÊU VỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI

Để hiện thực hóa các mục tiêu về phúc lợi xã hội cho người dân theo tinh thần Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm cho người lao động.

Giải pháp này có vai trò quan trọng hàng đầu, bởi chỉ khi đất nước có nền tảng kinh tế tốt, thu nhập quốc dân tăng cao, người dân có việc làm tạo ra thu nhập ổn định thì mới có điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu của phúc lợi xã hội, nâng cao được đời sống người dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập nhằm thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm phúc lợi xã hội một cách hiệu quả và bền vững. 

Để thực hiện tốt giải pháp này, trước hết cần tập trung tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng và phân loại doanh nghiệp, dự án, công trình đầu tư và vốn, tài sản nhà nước để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Rà soát phát hiện và có biện pháp xử lý các doanh nghiệp, dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Có các giải pháp phù hợp để lành mạnh hóa tình hình tài chính, xử lý dứt điểm tồn đọng tài chính, nợ không có khả năng thanh toán và các tài sản không sinh lời trong các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp thành viên. Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước theo lộ trình, tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm Nhà nước nắm giữ tỷ lệ vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định pháp luật; tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải nhưng không hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Có giải pháp phù hợp huy động hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước tham gia tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như năng lượng, hạ tầng số, nền tảng số, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng quốc gia, cung ứng các nguyên, vật liệu đầu vào quan trọng cho sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của chủ sở hữu, tạo điều kiện phát triển một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, có vai trò mở đường phát triển một số ngành kinh tế chủ lực, dẫn dắt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. 

Bên cạnh đó, cần phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn; phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với thực hiện đề án Đổi mới và Phát triển dạy nghề, chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, điều kiện và môi trường lao động an toàn.

Thứ hai, phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.

Trong điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo hiểm và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người dân tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội và môi trường. Cần khẩn trương hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được nâng cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội…Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách tiền lương. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, trong đó có chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân ở vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi chính thức. Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo đảm đời sống.

Đổi mới hơn nữa nội dung, hình thức, phương pháp truyền thông để nâng cao nhận thức của người dân về những lợi ích khi tham gia bảo hiểm xã hội, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm từng vùng miền, tâm lý từng nhóm dân cư; triển khai đồng bộ, linh hoạt các nhóm giải pháp phát triển người tham gia; đôn đốc thu, giảm nợ, không để phát sinh nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đồng thời, giải quyết, chi trả kịp thời đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất; chú trọng thanh tra, kiểm tra theo hình thức điện tử; kịp thời xử lý, kiến nghị cơ quan chức năng đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; mở rộng, đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Đẩy mạnh chuyển đổi số, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành; hoàn thiện, bổ sung các tính năng, tiện ích mới trên ứng dụng VssID; nghiên cứu, triển khai các nền tảng, giải pháp kỹ thuật mới phục vụ chuyển đổi số, nhằm phục vụ tốt nhất quyền lợi của các đơn vị, doanh nghiệp và người dân. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho công chức, viên chức công tác tại cơ quan bảo hiểm xã hội, đại lý thu. Đồng thời, nêu cao tinh thần, trách nhiệm phục vụ người tham gia và người thụ hưởng các chính sách về bảo hiểm xã hội, góp phần xây dựng ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người dân trong bối cảnh mới.

Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững.

Trong những năm tới, xóa đói, giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là triển khai có hiệu quả Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 và những định hướng về thực hiện chính sách xã hội, phúc lợi xã hội của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) với chuẩn nghèo mới phù hợp với tình hình phát triển của nước ta và tiếp cận với chuẩn quốc tế. Các chính sách và giải pháp xóa đói, giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người dân, cộng đồng và cơ sở.

Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo, vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là chương trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao. Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.

Thứ tư, thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.

Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn. Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với đất nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta. Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng thời hỗ trợ các gia đình người có công phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập; vận động toàn xã hội tham gia phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm cho những người có công có mức sống cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.

Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ giúp thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở rộng đối tượng và điều kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội. Nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa phương để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.

Thứ năm, phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước cũng như toàn xã hội để đảm bảo thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Thực hiện tốt phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thực hiện tốt giải pháp này cũng là một biểu hiện thực tế và sinh động bản chất ưu việt của chế độ ta. Do đó, việc bảo đảmphúc lợi xã hội cần phải gắn với đẩy mạnh phát triển các dịch vụ xã hội để vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám, chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hóa, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. 

Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc chăm lo phúc lợi xã hội, cần đề cao trách nhiệm, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và đổi mới phương thức quản lý phúc lợi xã hội, trong đó cần tập trung vào việc kiến tạo hệ thống phúc lợi xã hội tiến bộ, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước; tích cực đổi mới, hoàn thiện thể chế về tài chính ngân sách bảo đảm phúc lợi xã hội; xác định cụ thể trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo đảm phúc lợi xã hội cho công nhân và người lao động; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng và nâng cao tính tự giác, tích cực của người dân về chăm lo phúc lợi xã hội. 

Bên cạnh đó, trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn, chưa thể cùng một lúc triển khai phúc lợi xã hội trên tất cả các lĩnh vực, Nhà nước cần ưu tiên nguồn lực, giải quyết những vướng mắc để nâng cao phúc lợi xã hội trên một số lĩnh vực mà nhân dân, nhất là người lao động đang gặp nhiều khó khăn, đang có nhu cầu cấp bách. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả ba cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát triển hệ thống dịch vụ ngày càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất lượng ngày càng nâng lên. Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.

Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt khó khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục mầm non; chính sách khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hóa, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở…cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, ấm no, hạnh phúc.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình phúc lợi xã hội tự nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết dân tộc…

Phúc lợi xã hội có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Trong đó, giúp cho quá trình phân phối lợi ích - thước đo của sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện một cách triệt để nhất… Do vậy, nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người; bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm.

TS. Đỗ Văn Quân
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Nguyễn Trọng Tuân
Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Theo https://www.tuyengiao.vn/)

--------------------------

 Tài liệu tham khảo

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.Nxb CTQG, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb CTQG, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.Nxb CTQG, Hà Nội.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. T1.Nxb CTQG, Hà Nội.
  5. https://vov.vn/chinh-tri/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-post1051196.vov

 --------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1986, tr.79.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.169.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.30-31.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.116, 147, 149, 166.
(5) https://vov.vn/chinh-tri/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-post1051196.vov

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây