Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
Kinh tế phát triển là nền tảng của sự phát triển và phụ nữ Việt Nam đã chứng minh vai trò không thể thiếu trong hành trình kiến tạo sự thịnh vượng cho đất nước. Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động luôn duy trì ở mức cao, hiện nay đạt hơn 47%. Họ hiện diện trong mọi ngành, nghề, từ nông nghiệp - lĩnh vực truyền thống, đến các ngành kinh tế mũi nhọn, như sản xuất công nghiệp, thương mại, công nghệ, tài chính, logistics, đặc biệt là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Theo số liệu từ điều tra doanh nghiệp của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Tính đến hết tháng 9-2022, có 263.444 doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chiếm 22,2%, và hiện nay Việt Nam là một trong 20 thị trường mà nữ doanh nhân phát triển thuận lợi, có mạng lưới doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ hoạt động hiệu quả nhất ASEAN. Trong bối cảnh hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, nữ doanh nhân Việt Nam ngày càng khẳng định được năng lực, trình độ của mình không thua kém so với cộng đồng nữ doanh nhân các nước. Họ không chỉ đạt được thành tích, giải thưởng tôn vinh ở trong nước, mà còn được cộng đồng quốc tế đánh giá và ghi nhận. Nỗ lực vươn lên không mệt mỏi và thành công của nữ doanh nhân trong điều hành doanh nghiệp và câu chuyện thành công của họ đang truyền cảm hứng mạnh mẽ cho cộng đồng nữ doanh nhân về tinh thần khởi nghiệp và phát triển kinh doanh, làm giàu của phụ nữ Việt Nam.
Nhìn từ bình diện chung, với việc ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm ban hành nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu, đại đa số phụ nữ đã tự tin, nắm bắt cơ hội, vươn lên thoát nghèo, nhiều người đã có cuộc sống khá giả. Ở vùng sâu, vùng xa, phụ nữ vẫn nỗ lực vượt khó để thoát nghèo. Các chương trình, như “Phụ nữ khởi nghiệp” và “Thúc đẩy kinh tế xanh từ phụ nữ” đã hỗ trợ hàng nghìn phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, vươn lên làm giàu. Họ xác định rõ việc thoát nghèo, làm giàu trước hết là trách nhiệm của chính bản thân, gia đình và đã chung sức cùng với cộng đồng, xã hội tạo nên thành công của chương trình xóa đói, giảm nghèo nhiều năm trong cả nước, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Chiếm 48,1% trong lực lượng lao động thành thị và 46% trong lực lượng lao động nông thôn(1), phụ nữ có mặt ở hầu hết lĩnh vực và chiếm số đông trong một số ngành, nghề, như nông nghiệp, thương mại, giáo dục, y tế. Dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách, nhưng phụ nữ nông thôn luôn nỗ lực vươn lên, làm chủ trong sản xuất; đa số phụ nữ đã tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế tuần hoàn và xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của đất nước, phụ nữ tham gia ngày càng đông đảo vào các ngành công nghiệp chế biến, dệt may, da giày, điện tử, thương mại, tài chính, ngân hàng. Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và phát triển đội ngũ nữ doanh nhân, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành, nghề, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc gia.
Phụ nữ tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc
Một đất nước vững mạnh không chỉ dựa trên nền tảng kinh tế, mà còn phải bảo đảm sự ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng. Trong bối cảnh đó, phụ nữ Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Các tầng lớp phụ nữ Việt Nam không chỉ là lực lượng trực tiếp tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, mà còn là trụ cột đảm đương công việc gia đình, xây dựng hậu phương vững chắc, là điểm tựa để cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang yên tâm công tác, vững vàng tay súng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phụ nữ luôn là người đi đầu trong tham gia phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và tham gia các mô hình do hội liên hiệp phụ nữ các cấp tổ chức, như “Tổ phụ nữ giữ gìn đường biên mốc giới”, “Phụ nữ vì sự phát triển và bình yên tuyến biển”, hỗ trợ đắc lực cho lực lượng bộ đội biên phòng trong việc quản lý địa bàn, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và tạo nên bức tường thành vững chắc giữ vững chủ quyền biên giới từ sự hòa quyện gắn bó thắm tình quân - dân trên các tuyến biên giới quốc gia.
Tại cộng đồng khu dân cư, với việc tham gia các tổ phụ nữ tự quản, câu lạc bộ “gia đình không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, phụ nữ luôn là lực lượng chủ lực trong việc tuyên truyền, vận động người thân trong gia đình tích cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ và “thế trận lòng dân” vững chắc.
Việt Nam tự hào là quốc gia có 13% nữ quân nhân trên tổng số quân nhân tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Sự tham gia ngày càng nhiều của các nữ sĩ quan trong Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc là nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong bối cảnh thúc đẩy bình đẳng giới, tăng cường trao quyền cho phụ nữ, đóng góp vào một tương lai bền vững, an ninh, an toàn trong khu vực và trên thế giới.
Phụ nữ gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc
Với sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam, phụ nữ là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc; là người giữ gìn, tái tạo và sáng tạo làn điệu dân ca, câu ca dao, tục ngữ, bài hát, bài thơ. Bằng lời ru, tiếng hát dân ca mượt mà, thắm đượm tình yêu thương, người mẹ, người bà trong gia đình truyền lại cho con cháu vốn văn hóa dân tộc; đem lại cho con cháu trong nhà không chỉ là tình yêu thương, mà còn là bài học về đạo lý làm người qua lời ru ấy. Phụ nữ Việt Nam là người giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc. Từ giữ gìn làn điệu dân ca, phong tục, tập quán tốt đẹp, đến việc giáo dục đạo lý cho thế hệ trẻ, phụ nữ chính là người nối liền truyền thống và hiện đại.
Ở cơ sở, phụ nữ luôn là người hăng hái tham gia hoạt động xây dựng đời sống văn hóa thông qua mô hình, hoạt động, câu lạc bộ về gia đình, xây dựng đời sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao trong cộng đồng. Phụ nữ tích cực thực hiện cuộc vận động xây dựng mô hình “Gia đình 5 không, 3 sạch” (không đói nghèo, không tệ nạn xã hội, không bỏ học, không sinh con thứ ba, không bạo lực; sạch nhà, sạch bếp và sạch ngõ), thí điểm xây dựng mô hình “Gia đình 5 có, 3 sạch” (có ngôi nhà an toàn, có sinh kế bền vững, có sức khỏe, có kiến thức, có nếp sống văn hóa; sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ) trong xây dựng nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu với nhiều hoạt động rất thiết thực, xây dựng cảnh quan môi trường với tuyến đường hoa, hàng rào cây xanh, nhà có số, phố có tên, góp phần đưa nông thôn Việt Nam trở thành miền quê đáng sống. Không dừng lại ở việc bảo tồn, phụ nữ Việt Nam còn tích cực tham gia vào hoạt động sáng tạo văn hóa, góp phần đưa các giá trị truyền thống ra thế giới.
Phụ nữ tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ ở cơ sở
Một xã hội dân chủ thực sự chỉ có thể đạt được khi phụ nữ có tiếng nói bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị - xã hội. Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này nhờ sự nỗ lực không ngừng của phụ nữ và chính sách hỗ trợ hiệu quả.
Hiện nay, tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội Việt Nam là hơn 30%, nằm trong nhóm cao nhất khu vực Đông Nam Á. Đại biểu Quốc hội nữ không chỉ là người đại diện cho tiếng nói của giới mình, mà còn đóng góp ý kiến quan trọng cho các vấn đề lớn của quốc gia. Với tư cách là một lực lượng chiếm phần nửa trong xã hội, ý thức, khả năng, năng lực thực hành dân chủ, việc thực hiện trách nhiệm công dân của phụ nữ có tác động không nhỏ tới thành tựu phát huy dân chủ của đất nước. Với nỗ lực của các cấp, các ngành, đặc biệt là hội liên hiệp phụ nữ các cấp trong công tác tuyên truyền, giáo dục, trong hoạt động đối thoại chính sách; nhận thức, trình độ hiểu biết của phụ nữ về dân chủ và pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở ngày càng được nâng cao; từ đó, ý thức chấp hành, thực thi quyền dân chủ ngày càng tốt hơn, tham gia ngày càng hiệu quả và có trách nhiệm trong các hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách, nhất là pháp luật, chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới. Đặc biệt, từ khi Đảng ta quy định cụ thể về trách nhiệm, thẩm quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội cũng như trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, việc phát huy dân chủ trực tiếp và gián tiếp của nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng ngày càng hiệu quả trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đơn cử, năm 2013, khi lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi Hiến pháp năm 1992, số liệu tổng hợp từ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho biết đã có hơn 10 triệu lượt ý kiến tham gia của các tầng lớp phụ nữ; nhiều ý kiến góp ý xác đáng, đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn của phụ nữ đã được Ban soạn thảo tiếp thu. Hay trong quá trình lấy ý kiến về Luật Đất đai sửa đổi vào năm 2023, các cấp hội liên hiệp phụ nữ đã nhận được hơn 2,3 triệu lượt ý kiến của phụ nữ từ đủ các giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, khu vực, hội phụ nữ các cấp tham gia xây dựng và góp ý.
Nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới góp phần thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng xã hội, đưa phụ nữ vững bước vào kỷ nguyên mới
Bình đẳng giới không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng. Nỗ lực của phụ nữ Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giới đã mang lại kết quả ấn tượng.
Theo Báo cáo phát triển con người của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), năm 2022, Việt Nam đứng thứ 107/193 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số phát triển con người, nhưng riêng chỉ số phát triển giới đang đứng thứ 91, nghĩa là cao hơn thứ hạng chỉ số phát triển con người. Xét về chỉ số phát triển giới, Việt Nam nằm trong nhóm 1, là nhóm có sự bình đẳng cao nhất về chỉ số phát triển giới giữa nam và nữ. Năm 2023, Việt Nam cũng đã được bầu vào Hội đồng chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025 - 2027.
Các chương trình an sinh xã hội, như “Mẹ đỡ đầu”, “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”, mô hình “Ngôi nhà bình yên”, “Tết yêu thương”,… đã giúp hàng nghìn phụ nữ và trẻ em vượt qua khó khăn, xây dựng cuộc sống mới. Các hoạt động nhân ái này không chỉ thể hiện trách nhiệm của phụ nữ với cộng đồng, mà còn góp phần lan tỏa giá trị nhân văn trong xã hội.
Có thể nói rằng, những thành tựu sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như xu thế phát triển của thời đại. Thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nhìn từ các khía cạnh khác nhau, đặc biệt là tiếp cận từ hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” là kết tinh sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp lớn lao của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng với sự tin cậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc tới: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”(2).
Bài học từ công cuộc xây dựng đất nước đã giúp Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ trong chiến lược phát triển, từ chỗ lấy nguồn lực vật chất là chính đến lấy con người làm trọng tâm và là mục tiêu cho sự phát triển. Với ý nghĩa đó, để phụ nữ Việt Nam có đủ hành trang, tri thức bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trên cơ sở định hướng đổi mới của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới để lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện trong xã hội; trước hết, tổ chức tổng kết một cách toàn diện việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của Bộ Chính trị, “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; từ đó kiến nghị ban hành nghị quyết mới của Ban Chấp hành Trung ương về công tác phụ nữ phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay; đồng thời, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về công tác phụ nữ và vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và sự nghiệp bình đẳng giới của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hai là, tiếp tục tăng cường công tác truyền thông để làm thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành và người dân, cả nam giới và phụ nữ, về vị trí, vai trò và đóng góp của phụ nữ với tư cách là nguồn lực quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước. Theo đó, bình đẳng giới cần được nỗ lực thúc đẩy góp phần thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng xã hội, là mục tiêu, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Ba là, rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phụ nữ, công tác phụ nữ nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào chương trình, kế hoạch phát triển của quốc gia và từng địa phương, nhất là chương trình liên quan đến phát triển kinh tế, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số; chú trọng chính sách nhằm nâng cao năng lực thích ứng về nghề nghiệp và bảo đảm an sinh cho lao động nữ trong bối cảnh mới. Có cơ chế, chính sách phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách có trách nhiệm trong quá trình cân đối, bố trí vốn đầu tư phát triển để thực hiện các dự án của Chương trình chuyển đổi số quốc gia, tạo động lực cho phụ nữ trực tiếp tham gia chuyển đổi số, xây dựng xã hội số.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức hội liên hiệp phụ nữ trong chuẩn bị hành trang, tri thức, trí tuệ, sức khỏe, khát vọng, kỹ năng lãnh đạo cho phụ nữ bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Các cấp hội tập trung đẩy mạnh thực hiện và tiếp tục đề xuất nhiệm vụ, hoạt động trong các chương trình mục tiêu quốc gia, đề án, dự án, vừa tạo nguồn lực cho hội, vừa góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tiếp tục đẩy mạnh Phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”, để tổ chức hội là nơi tập hợp và nhân lên khát vọng phát triển, sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước, là môi trường để phụ nữ thể hiện năng lực và tự khẳng định bản thân.
Phụ nữ Việt Nam, với tinh thần chủ động, kiên cường và sáng tạo, đã đóng góp to lớn vào mọi lĩnh vực của đời sống. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tạo thêm động lực, để phụ nữ không chỉ là người đồng hành, mà còn trực tiếp tham gia kiến tạo, xây dựng đất nước. Vai trò của phụ nữ không chỉ giới hạn trong gia đình, mà còn mở rộng ra toàn xã hội, góp phần làm nên một Việt Nam dân chủ, công bằng, thịnh vượng và hạnh phúc.
Tổng Bí thư Tô Lâm từng khẳng định: Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong kỷ nguyên ấy, phụ nữ Việt Nam không chỉ tiếp lửa truyền thống, mà còn có mặt trong mọi lĩnh vực, cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, văn minh, hiện đại ./.
TS NGUYỄN THỊ TUYẾN
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
(Theo https://www.tapchicongsan.org.vn/)
-----------------------
(1) Tổng cục Thống kê: “Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2022”, Nxb. Thống kê, 2023, tr. 21, https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/03/Sach-BC-Dieu-tra-LDVL-2022-Vietnamese.pdf
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 340