Ban Thường vụ Thành ủy tổ chức hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 09/7/2012 của Thành ủy “Về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của TP Cần Thơ”. Ảnh: PV.
Nhiều kết quả trong nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
Về kết quả tổng thể, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2021 của thành phố Cần Thơ đứng thứ 12/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (vẫn duy trình xếp hạng so với năm 2020, nhưng tăng 4 bậc so với trước khi ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU), với tổng số điểm là 68,06 điểm (tăng 1,73 điểm so với năm 2020) và được xếp vào nhóm có thứ hạng “Tốt”, đứng thứ 02/13 tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tăng 3 bậc so với năm 2020). Như vậy, trong 10 năm qua, mặc dù điểm số và thứ hạng có lúc tăng, lúc giảm, kèm theo đó là các lần thay đổi phương pháp đánh giá PCI, tuy nhiên điểm số có biên độ tăng giảm không nhiều, thứ hạng của Cần Thơ luôn xoay quanh vị trí từ 10 đến 12, cho thấy độ ổn định trong việc cải thiện và duy trì điểm số và thứ hạng.
Đối với việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của thành phố chính là nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh; cổng dịch vụ công trực tuyến của thành phố đã được đưa vào vận hành, khai thác phục vụ người dân và doanh nghiệp tại địa chỉ https://dichvucong.cantho.gov.vn, đến nay đã tiếp nhận 2.661.319 hồ sơ, đã giải quyết đúng hạn 2.587.543 hồ sơ, đạt tỷ lệ 97,23%. Ngoài ra, hệ thống thông tin một cửa điện tử được nâng cấp đồng bộ cho tất cả các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ thành phố đến cấp huyện, cấp xã. Cụ thể, thành phố có tổng số dịch vụ công trực tuyến mức 3,4 là 1.445/1.885 (đạt 77%), tích hợp 876 thủ tục hành chính liên thông từ Cổng dịch vụ công quốc gia với Cổng dịch vụ công thành phố.
Về nội dung hỗ trợ phát triển doanh nghiệp về số lượng, quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh, hướng đến, hình thành một số doanh nghiệp có quy mô lớn, khả năng cạnh tranh cao trong các ngành thế mạnh của thành phố, từng bước tiến tới cạnh tranh quốc gia và quốc tế, thành phố đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ tài sản trí tuệ, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể: Chương trình Đổi mới công nghệ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Cần Thơ giai đoạn 2013-2017 và giai đoạn 2018-2020; Dự án Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Cần Thơ đến năm 2020; Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ thành phố Cần Thơ giai đoạn 2012-2015 và giai đoạn 2016-2020; hình thành và phát triển Sàn giao dịch công nghệ Cần Thơ trực tuyến (Catex.vn)…
Thành phố tập trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ và vận dụng linh hoạt có hiệu quả các cơ chế, chính sách và giải pháp của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nhất là thủ tục về đất đai nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng và thân thiện. Từ đó, công tác giao đất, cho thuê đất luôn được chỉ đạo thực hiện kịp thời, đúng thẩm quyền, đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật và phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Qua đó, thu hút nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn, đem lại nguồn thu cho ngân sách thành phố cũng như phát triển các mặt kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tăng cường công tác quản lý đất đai, chống lãng phí trong sử dụng nguồn tài nguyên đất đai. Kết quả 10 năm, đã thực hiện giao đất cho 448 trường hợp với diện tích 1.204,97 ha, cho 243 tổ chức thuê đất với diện tích 463,66 ha, chuyển mục đích sử dụng đất 61 trường hợp với diện tích 38,46 ha; quan tâm công tác định giá đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, kiểm tra thực tế tình hình sử dụng đất, tránh sử dụng đất kém hiệu quả, không đúng mục đích. Tổng số dự án đang thực hiện: 19 dự án. Thành phố đang trong quá trình xây dựng quy chế phối hợp trong thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giữa các cơ quan. Rà soát các nội dung còn vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để xem xét quyết định việc sửa đổi, bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân thành phố hoặc xin ý kiến hướng dẫn của các cơ quan Trung ương.
Đồng thời, thành phố cũng thực hiện việc rút ngắn thời gian cấp phép một số lĩnh vực có tác động lớn đến việc thu hút, cải thiện môi trường đầu tư, như: Giấy phép xây dựng trong khu chế xuất và khu công nghiệp xuống còn 10 ngày; cấp Giấy phép xây dựng tại Sở Xây dựng được rút ngắn 15 ngày so với quy định là 30 ngày, thời gian thẩm định thiết kế cơ sở được rút xuống còn 16 ngày (quy định là 20 ngày) đối với dự án nhóm B và 12 ngày (quy định là 16 ngày) so với dự án nhóm C; thẩm định thiết kế, dự toán xây dựng công trình được rút ngắn còn là 27 ngày đối với công trình cấp II và cấp III (quy định là 30 ngày); rút ngắn thời gian thẩm định phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch xuống còn 30 ngày, đồ án quy hoạch còn 34 ngày; thời gian cấp Giấy chứng nhận thẩm định thiết kế về PCCC được rút ngắn 10 ngày so với quy định là 15 ngày đối với dự án nhóm A và 08 ngày (quy định 10 ngày) đối với quy hoạch, dự án xây dựng thiết kế kỹ thuật công trình nhóm B, C,…; thời gian cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bị mất và Đăng ký đất đai lần đầu được rút ngắn 15 ngày so với quy định là 30 ngày; tách - hợp thửa giảm từ 20 ngày xuống còn 15 ngày; xác nhận trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp giảm từ 10 ngày xuống còn 5 ngày. Rút ngắn thời gian đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản xuống không quá 14 ngày.
Chỉ số thiết chế pháp lý của thành phố được duy trì nhằm cải thiện điểm số và thứ bậc trong bảng xếp hạng PCI hàng năm. Theo đó, tỷ lệ các doanh nghiệp tin tưởng vào khả năng bảo vệ pháp luật về vấn đề bản quyền hoặc thực thi hợp đồng, tin rằng cấp trên không bao che và sẽ nghiêm túc xử lý kỷ luật cán bộ sai phạm có sự thay đổi tích cực so với năm 2020. Theo khảo sát, đánh giá, có 99% doanh nghiệp cho rằng tòa án các cấp của thành phố xét xử các vụ kiện kinh tế đúng pháp luật; 97% cho rằng các phán quyết của tòa là công bằng.
Qua những kết quả nêu trên đã minh chứng cho những nỗ lực của các ngành, các cấp chính quyền, sự đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, môi trường đầu tư, kinh doanh thành phố được cải thiện rõ rệt, cải cách thủ tục hành chính được tăng cường, giảm thời gian và chi phí hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; chuyển mạnh cơ chế quản lý sang hậu kiểm; công tác phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư được các cấp các ngành quan tâm; hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, xúc tiến thương mại, bảo lãnh tín dụng, vườn ươm doanh nghiệp được triển khai và nhận được phản ứng tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp…
Một số khó khăn, hạn chế
Một là, còn địa phương, doanh nghiệp và các Hiệp hội doanh nghiệp trên địa bàn còn chưa nắm rõ tinh thần, nội dung của Nghị quyết số 11-NQ/TU, dẫn đến sự chủ động tham gia của doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp trên địa bàn thành phố chưa cao.
Hai là, công tác tổ chức đối thoại, tiếp xúc với các doanh nghiệp đã được nhiều địa phương thực hiện như: Ninh Kiều, Thốt Nốt, Ô Môn,... Nhưng mới chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc chung chung, chứ chưa tổ chức đối thoại tiếp xúc theo chuyên đề cụ thể; bước đầu chỉ ghi nhận vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp, chưa đi vào thực chất và giải quyết dứt điểm các vấn đề liên quan đến quy trình, thủ tục về đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường,... cũng như theo dõi, đánh giá quá trình xử lý sau đối thoại với doanh nghiệp.
Ba là, công tác lập quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu cấp thành phố làm định hướng thu hút đầu tư và tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc, số lượng dự án quy hoạch nhiều, sự chồng chéo giữa các quy hoạch còn phổ biến; việc lập, triển khai và tổ chức thực hiện quy hoạch còn lúng túng, chưa xác định rõ ngành, lĩnh vực tạo đột phá, các sản phẩm chủ yếu cần lập quy hoạch/ Đề án riêng để tập trung đầu tư; một số ngành triển khai lập quy hoạch theo phong trào, chưa xuất phát từ tình hình thực tế vì vậy khi có doanh nghiệp đầu tư phải điều chỉnh quy hoạch dẫn đến kéo dài thời gian.
Bốn là, việc rà soát, đánh giá loại bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, do các văn bản hướng dẫn thực hiện thường xuyên thay đổi, bổ sung đã ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Năm là, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong việc tiếp cận bảo lãnh tín dụng từ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố. Việc rà soát đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa còn lúng túng, đến nay vẫn chưa có cơ chế giải quyết. Mặt khác, năng lực nói chung của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân còn nhiều hạn chế do quản trị kém, sổ sách chưa minh bạch dẫn đến độ tin cậy thấp, khó tiếp cận nguồn vốn vay.
Sáu là, Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, không nằm trong danh mục các địa bàn được ưu đãi đầu tư theo quy định nên tiền thuê đất hiện nay khá cao so với các tỉnh lân cận như Vĩnh Long, Hậu Giang, Kiên Giang,… đã ảnh hưởng không nhỏ trong việc thu hút đầu tư.
Những khó khăn, hạn chế nêu trên do một số nguyên nhân chính như: (1) Nhận thức của người đứng đầu một số cơ quan, ban ngành và địa phương về ý nghĩa và tầm quan trọng của Nghị quyết số 11-NQ/TU của Thành ủy chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. (2) Việc thay đổi tư duy từ chính quyền quản lý sang chính quyền phục vụ người dân, doanh nghiệp còn chậm, do cách nghĩ, cách làm cần có thời gian thích nghi, chuyển biến. (3) Các Sở ban ngành thành phố và địa phương muốn đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục để rút ngắn thời gian cho doanh nghiệp, nhưng vẫn còn gặp khó khăn về quy trình thủ tục xử lý các vướng mắc của doanh nghiệp. (4) Các Hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng chưa phát huy rõ vai trò đầu mối, đại diện để truyền tải, phản ánh tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp với các cấp chính quyền trên địa bàn thành phố.
Tiếp tục cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
Trong bối cảnh kinh tế số, xã hội số phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế thành phố được Trung ương quan tâm tạo điều kiện về cơ chế, chính sách có nhiều cơ hội để phát triển như: Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 45/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ… Do đó, trong thời gian tới các cấp ủy Đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành thành phố cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm nhằm cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) như sau:
Trước hết, về các nhiệm vụ trọng tâm: Cần tập trung triển khai các giải pháp cải thiện các chỉ số thành phần giảm điểm, tiếp tục duy trì và tăng điểm các chỉ số thành phần tăng điểm của năm 2021. Phấn đấu đưa thành phố Cần Thơ vào nhóm 10 tỉnh, thành phố có chất lượng điều hành tốt trong thời gian tới. Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí đánh giá về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở ngành, quận, huyện.
Thứ hai, triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp:
Một là, tiếp tục tăng cường chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp của các ngành, các cấp, tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động về vai trò, tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Hai là, rà soát các chỉ số thành phần giảm điểm, có thứ hạng thấp để có biện pháp cải thiện; giao trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị, địa phương, nhất là cơ quan, đơn vị có trách nhiệm chính trong việc thực hiện các chỉ số thành phần, thứ hạng thấp hoặc giảm điểm; hoàn thiện các chính sách trên từng lĩnh vực thuộc thẩm quyền của thành phố, nhất là lĩnh vực liên quan đến môi trường đầu tư, kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến đầu tư.
Ba là, nâng cao vai trò trách nhiệm của cán bộ công chức, người đứng đầu các cấp trong tham mưu, giải quyết công việc; năng động, tiên phong trong thực hiện vai trò đồng hành hỗ trợ doanh nghiệp; xây dựng chính quyền điện tử, phát triển kinh tế số trong bối cảnh hiện nay.
Bốn là, đổi mới chất lượng các cuộc Đối thoại giữa Chính quyền thành phố và doanh nghiệp, đi vào thực chất, giải quyết triệt để các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Đa dạng các kênh thông tin tiếp nhận ý kiến của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời, hiệu quả.
Năm là, tăng cường chính sách hỗ trợ đối với lĩnh vực công nghiệp, thương mại như: Xây dựng các chính sách hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp khi tham gia vào các chương trình kết nối doanh nghiệp quốc tế, Hội chợ trong nước và quốc tế nhằm tìm kiếm thị trường; triển khai hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng; triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình kết nối giữa các tổ chức tín dụng với doanh nghiệp; xây dựng chính sách phát triển thị trường bán lẻ, xây dựng cơ sở dữ liệu về doan nghiệp công nghiệp hỗ trợ và các sản phẩm xuất khẩu để tạo kết nối doanh nghiệp tìm kiếm thông tin khi cần đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất hiện đại,...
Sáu là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách đặc thù của thành phố để đề xuất các giải pháp để thu hút đầu tư trong và ngoài nước; thúc đẩy hình thành và phát triển các tổ chức kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, có năng lực cạnh tranh cao.
Bảy là, phát huy Mô hình một cửa và một cửa liên thông, rà soát, kiện toàn các quy chế phối hợp, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục liên quan đến lĩnh vực đầu tư - đất đai - xây dựng nói riêng; rà soát, kiến nghị bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết, không phù hợp, tạo mọi thuận lợi, rút ngắn thời gian, chi phí và rủi ro thực hiện thủ tục hành chính của doanh nghiệp, người dân và các nội dung có liên quan đến các chỉ số thành phần thuộc tiêu chí đáng giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Nâng cao tỷ lệ hồ sơ sử dụng dịch vụ công mức độ 4.