THÔNG TIN BÁO CHÍ: Mức độ nguy hiểm của biến thể phụ BA.5 và những điều cần lưu ý Tiêm nhắc lại (mũi 3, mũi 4) vắc xin phòng COVID-19 là cần thiết và những điều cần biết về hạn sử dụng vắc xin phòng COVID-19
Vo Tan Vinh
2022-07-12T02:01:47-04:00
2022-07-12T02:01:47-04:00
http://bantuyengiao.cantho.gov.vn/vi/news/tai-lieu-tuyen-truyen/thong-tin-bao-chi-muc-do-nguy-hiem-cua-bien-the-phu-ba-5-va-nhung-dieu-can-luu-y-tiem-nhac-lai-mui-3-mui-4-vac-xin-phong-covid-19-la-can-thiet-va-nhung-dieu-can-biet-ve-han-su-dung-vac-xin-phong-covid-19-279.html
http://bantuyengiao.cantho.gov.vn/uploads/news/2022_07/12-7-bienthe.jpg
Trang thông tin điện tử Tuyên giáo Cần Thơ
http://bantuyengiao.cantho.gov.vn/uploads/logo_1.png
Theo thông tin từ Bộ Y tế, hiện nay biến thể phụ BA.5 của chủng Omicron đã xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam và có nguy cơ lây nhiễm nguy hiểm hơn các biến thể cũ hiện đang tồn tại.
Đến nay một số nước ở Châu Âu và Mỹ đã xuất hiện biến thể phụ BA.4, BA.5 của Omicron và bắt đầu có sự gia tăng về số ca mắc COVID-19. Ảnh nguồn: https://moh.gov.vn.
1. Mức độ nguy hiểm và những nguy cơ mà biến thể phụ BA.5 có thể gây ra
Hiện nay trên thế giới, biến thể phụ BA.5 của Omicron đã ghi nhận tại nhiều quốc gia và đã xuất hiện tại Việt Nam. Số liệu báo cáo từ các nước châu Âu, Nam Phi khi biến thể phụ BA.5 xuất hiện thì mức độ lây lan nhanh với tốc độ tăng số mắc hàng ngày của biến thể phụ BA.5 khoảng 12-13% so với biến thể BA.2 và sẽ từng bước thay thế biến thể phụ BA.2 (biến thể phụ phổ biến tại Việt Nam hiện nay), do đó trong thời gian tới các ca nhiễm biến thể phụ BA.5 có thể ghi nhận nhiều hơn trong cộng đồng ở nước ta. Như vậy, số ca mắc có thể gia tăng trong thời gian tới do sự xuất hiện của biến thể phụ BA.5.
Nếu đã từng mắc các biến chủng của Omicron, vẫn không có khả năng miễn dịch với các biến chủng mới này. Chính vì vậy, chúng rất có thể gây ra một làn sóng dịch khác và các chuyên gia cho rằng virus còn sẽ tiến hóa nhiều hơn khiến cho nhiều người có thể mắc bệnh nhiều lần.
Khả năng tái nhiễm ở những người đã từng mắc COVID-19 và nguy cơ xuất hiện các biến chủng mới: Người đã từng mắc COVID-19 vẫn có khả năng bị tái nhiễm và mắc các biến chứng của bệnh, bao gồm cả trẻ em và người lớn. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy người tái nhiễm vẫn có nguy cơ mắc bệnh mức độ nghiêm trọng và phải điều trị hồi sức tích cực. Cũng cần lưu ý, mặc dù số ca tử vong do COVID-19 trên toàn cầu có xu hướng giảm, tuy nhiên, ở một số khu vực dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp, xuất hiện các biến chủng mới. Hiện nay nhiều quốc gia đã dỡ bỏ một phần hoặc hoàn toàn các biện pháp phòng chống dịch nên nguy cơ dịch quay trở lại là hoàn toàn có thể.
Đối với Việt Nam nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng, việc biến chủng mới BA.5 xâm nhập là điều khó tránh vì chúng ta đã thực hiện chính sách thích ứng an toàn với dịch bệnh COVID-19 và mở cửa, giao thương kinh tế.
Tốc độ gia tăng số mắc hàng ngày của COVID-19 phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: bản chất của biến thể về khả năng lây nhiễm (vi rút SARS-CoV-2 thường xuyên biến đổi, không ổn định); khả năng bảo vệ miễn dịch của cộng đồng (mắc phải hoặc do tiêm vắc xin) giảm theo thời gian; khả năng đáp ứng và các biện pháp phòng, chống dịch tại địa phương. Do đó khó dự báo được mức độ tăng cụ thể trong thời gian tới. Do vậy, hệ thống giám sát, đáp ứng phòng chống dịch từ trung ương đến địa phương cần tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, tiêm vắc xin tăng cường, nhắc lại cho những nhóm có nguy cơ mắc bệnh và tiếp tục truyền thông để người dân luôn có ý thức phòng, chống dịch.
2. Việc tiêm các mũi nhắc lại (mũi 3, mũi 4) vắc xin phòng COVID-19 là rất cần thiết nhằm bảo vệ cơ thể không bị mắc bệnh, đặc biệt là tránh nguy cơ bị bệnh nặng và tử vong do COVID-19 trong điều kiện xuất hiện các biến chủng mới.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và CDC Hoa Kỳ, việc tiêm các mũi nhắc lại rất cần thiết bởi vì các mũi tiêm cơ bản sẽ bị suy giảm hiệu quả trong vòng 6 tháng và khi biến thể mới xuất hiện.Các mũi nhắc lại sẽ giúp gia tăng nồng độ kháng thể, bảo vệ cơ thể khỏi nguy cơ mắc hoặc tình trạng bệnh diễn tiến nặng, đặc biệt trong tình hình các biến thể mới có thể liên tục xuất hiện trong tương lai.
Theo các nghiên cứu trên thế giới, hiệu quả bảo vệ của mũi 4 làm giảm nguy cơ mắc COVID-19 (trên 52%), nếu mắc sẽ không có triệu chứng (61%), giảm nguy cơ nhập viện (72%), nếu có triệu chứng nặng thì sẽ giảm nguy cơ tử vong (76%)… Các chuyên gia cũng khuyến cáo người đã từng mắc COVID-19 vẫn có khả năng bị tái nhiễm và mắc các biến chứng của bệnh, bao gồm cả trẻ em và người lớn.
Trong giai đoạn hiện nay, vắc-xin vẫn là biện pháp hàng đầu để phòng chống dịch. Do đó, khuyến cáo người dân cần tiêm đúng, tiêm đủ liều vắc-xin theo khuyến cáo của Bộ Y tế. Đặc biệt là với những người cao tuổi hay người có bệnh nền, người bị suy giảm miễn dịch, các lực lượng tuyến đầu: y tế, công an, quân đội, giáo viên, người làm việc trong lĩnh vực giao thông vận tải, người cung cấp dịch vụ thiết yếu, người làm việc tại các cơ sở dịch vụ du lịch, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ, người làm việc trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp…
Cùng với vắc xin, mọi người nên tiếp tục duy trì thực hiện các thói quen tốt như: Bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân bằng việc ăn uống, sinh hoạt điều độ, khoa học, vận động hợp lý; đeo khẩu trang ở những nơi có tập trung đông người; giữ gìn vệ sinh cá nhân, đảm bảo vệ sinh không gian sống.
Bên cạnh đó, cần loại bỏ ngay những quan niệm chủ quan, sai lầm như: nghe các tin đồn không đúng về tác dụng phụ của vắc xin thiếu các chứng cứ khoa học, chẳng hạn một số người cho rằng việc tiêm vắc xin ngừa COVID-19 có thể gây ảnh hưởng giảm trí nhớ, rung tóc, suy giảm chức năng sinh sản…
3. Những điều cần biết về hạn sử dụng vắc xin phòng COVID-19
Vaccine Pfizer là vắc xin phòng COVID-19 đầu tiên được Tổ chức Y tế thế giới phê duyệt sử dụng khẩn cấp vào ngày 31/12/2020. Theo thông báo ngày 2/12/2021 của Bộ Y tế, đối với vắc xin Pfizer, sau khi phê duyệt khẩn cấp, nhà sản xuất tiếp tục nghiên cứu độ ổn định theo hướng dẫn đối với thuốc mới cũng như sản phẩm sinh học. Nghiên cứu được tiến hành trên các dải nhiệt độ bảo quản khác nhau. Kết quả cho thấy, vắc xin đã có độ ổn định, đảm bảo chất lượng, hạn sử dụng là 9 tháng, thậm chí dài hơn kể từ ngày sản xuất khi được bảo quản ở nhiệt độ từ -900C đến -600C.
Theo Công văn số 10747/BYT-QLD ngày 17/12/2021 của Bộ Y tế gửi UBND các tỉnh, thành phố về việc tăng hạn dùng của vắc xin Pfizer, được áp dụng chung trên toàn cầu trong tiêm chủng cho tất cả các nhóm đối tượng từ 12 tuổi trở lên. Việc gia hạn cũng đã được kiểm định khắt khe và đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả. Việt Nam không tự gia hạn sử dụng của vắc xin mà thực hiện theo thông lệ của quốc tế.
Tất cả các lô vắc xin trước khi sử dụng tại Việt Nam đều được Viện Kiểm định quốc gia vắc xin và sinh phẩm y tế đánh giá chất lượng và cấp giấy phép xuất xưởng. Do vậy, việc tăng thời hạn sử dụng vắc xin không làm thay đổi chất lượng, an toàn, hiệu quả của vắc xin.
Cần lưu ý phân biệt giữa hạn sử dụng trên nhãn lọ vắc xin và hạn rã đông. Với hạn sử dụng ghi trên nhãn lọ vắc xin, vắc xin Pfizer phải được bảo quản ở nhiệt độ âm sâu từ -900C đến -600C , vắc xin Moderna cần được bảo quản đông lạnh trong khoảng từ -50°C đến -15°C. Tuy nhiên tại tuyến y tế cơ sở do không có đủ điều kiện bảo quản vắc xin ở độ âm sâu nên khi vắc xin được rã đông (tại các Viện tuyến Trung ương) chỉ bảo quản để sử dụng trong điều liện nhiệt độ 20C đến 80C trong vòng tối đa 30 ngày (riêng đối với vắc xin Pfizer sử dụng cho trẻ em mới đây có thể sử dụng trong điều liện nhiệt độ 20C đến 80C trong vòng tối đa 10 tuần).
Ban biên tập CDC Cần Thơ