Phát huy mạnh mẽ, hiệu quả vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc

Thứ năm - 03/08/2023 04:41 74 0
Thời gian qua, việc xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Đội ngũ trí thức đã có đóng góp đáng ghi nhận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh phát triển mới, yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục xây dựng, phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ trí thức, để trí thức Việt Nam xứng đáng là “vốn liếng quý báu của dân tộc”, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu dự Lễ kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt đội ngũ trí thức (18/5/1963 - 18/5/2023) và 40 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (26/3/1983 - 26/3/2023). (Ảnh: TTXVN)

15 NĂM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA: KẾT QUẢ VÀ NGUYÊN NHÂN

Ngày 6/82008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về "Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết khẳng định những quan điểm lớn của Đảng ta về trí thức và nêu ra những chủ trương quan trọng về xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, của sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, đội ngũ trí thức Việt Nam đã có bước trưởng thành, phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ; qua đó, có nhiều đóng góp vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần trách nhiệm đối với Tổ quốc và nhân dân, đội ngũ trí thức, nhà khoa học đã tích cực cống hiến tài năng, trí tuệ, tham gia xây dựng các luận cứ khoa học, tư vấn chủ trương, đường lối, chính sách phát triển cho Đảng, Nhà nước; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao khoa học - công nghệ, đẩy mạnh quá trình đổi mới sáng tạo, quá trình chuyển đổi số, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, ưu điểm, hoạt động của đội ngũ trí thức cũng còn một số hạn chế, bất cập. Đóng góp của đội ngũ trí thức vào sự nghiệp phát triển đất nước chưa được như kỳ vọng; đội ngũ trí thức đầu ngành còn thiếu, đội ngũ kế cận có sự hẫng hụt; cơ chế, chính sách thu hút nhân tài còn bất cập, thiếu đồng bộ, ít có tính đột phá; nhà khoa học chủ yếu hưởng lương theo ngạch, bậc hành chính (chuyên viên, cán sự), mức lương thường rất thấp, chưa tương xứng với kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; cơ chế đãi ngộ còn thiếu tính động lực để đội ngũ trí thức, nhà khoa học có thể tận tâm, tận hiến cho đất nước.

Phương thức lãnh đạo đối với đội ngũ trí thức chưa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo là những lĩnh vực chủ yếu gắn liền với hoạt động của trí thức, nhưng việc tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách liên quan tới lĩnh vực này (như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhận định) còn hạn chế; thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ chế, chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài. Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, năng lực sáng tạo của các nhà khoa học chưa được phát huy(1).

Chính sách ưu đãi đối với các nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học chủ trì nhiệm vụ cấp quốc gia chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Điều kiện, môi trường làm việc của nhà khoa học chưa khuyến khích đổi mới sáng tạo. Nhà khoa học chưa thực sự được tôn vinh, làm ảnh hưởng đến lòng tự tôn và tinh thần say mê khoa học của họ. 

Để phát triển đội ngũ trí thức đòi hỏi tập trung đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, vì đây là lĩnh vực thuộc về quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển của đất nước, động lực cho đổi mới sáng tạo. Để trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN, thu nhập cao vào năm 2045, chúng ta phải đầu tư mạnh mẽ cho phát triển khoa học và công nghệ, để đưa đất nước đi lên bằng khoa học và công nghệ, nhất là trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang chi phối đời sống nhân loại trên toàn cầu.

Các kỹ sư Trung tâm vũ trụ Việt Nam thiết kế, chế tạo vệ tinh MicroDragon. (Nguồn: tuoitre.vn)


Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế:

Nguyên nhân của thành tựu:

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 40 năm đổi mới, đặc biệt với những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện của nhiệm kỳ Đại hội XII, cùng thời gian từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay là kết quả của sự đoàn kết, chung sức đồng lòng, nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ trí thức nước nhà. Trí thức là những chiến sĩ tích cực tham gia trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, như phát triển khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục - đào tạo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố và phát huy. Có thể nói, không có lĩnh vực nào mà người trí thức không có sự đóng góp quan trọng. Một mặt, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước; chủ trương của Đảng kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong những năm qua đã được giới trí thức ủng hộ, tin tưởng; mặt khác, Đảng cũng tin tưởng trí thức, có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện để phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trí thức tin Đảng và Đảng cũng tin tưởng trí thức, tôn trọng trí thức.   

+ Nguyên nhân của hạn chế:

- Nhận thức của một số lãnh đạo ở các cấp về phát huy vai trò của trí thức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới sáng tạo còn chưa đúng mức, đúng tầm; 15 năm qua chưa thực sự có những đột phá trong nhận thức và chính sách để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đây chính là “điểm nghẽn” lớn nhất trong việc thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW.

- Sự quan tâm của các cấp, các ngành trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt, đãi ngộ, tôn vinh đối với đội ngũ trí thức chưa đầy đủ; chưa thực sự coi trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, gắn liền với vận mệnh của đất nước. Hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo chưa được đẩy mạnh, hiệu quả chưa cao, còn sử dụng lãng phí nhân lực chất lượng cao.

- Do còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các địa phương nên việc xây dựng và thực hiện chính sách liên quan không đồng bộ, không tạo được động lực mạnh để phát triển cả đội ngũ trí thức. Thiếu các trung tâm nghiên cứu mạnh ở viện nghiên cứu, trường đại học.

- Chưa xây dựng và ban hành được quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học cho mọi đối tượng.

- Môi trường làm việc chưa thực sự hấp dẫn, nhất là đối với người có tài; cơ hội thăng tiến của các nhà khoa học còn nhiều khó khăn; đánh giá, sử dụng, đãi ngộ cán bộ trí thức, nhà khoa học vẫn nặng về hình thức và theo chức vụ hành chính hơn là căn cứ theo trình độ, năng lực chuyên môn, vì thế thu nhập chưa tương xứng với đóng góp và cống hiến của họ.

- Cơ chế hành chính và tài chính trong quản lý khoa học mặc dù đã có tiến bộ hơn so với trước, nhưng vẫn còn bất cập.

- Một số cán bộ, đảng viên là trí thức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI GIAN TỚI

Qua hơn hai năm sau Đại hội XIII của Đảng, tình hình thế giới diễn biến cơ bản như nhận định của Đại hội. Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, sâu sắc, rất phức tạp, khó đoán định; xung đột do địa - chính trị, xung đột giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, tác động đến toàn cầu. Tình hình đó đòi hỏi có tư duy chiến lược, trình độ trí tuệ cao, tầm nhìn sâu sắc, toàn diện để chèo lái đất nước. Điều đó, tự nó đã nói lên tầm quan trọng của tri thức và của đội ngũ trí thức. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa đến thành tựu tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, như xây dựng xã hội 5.0, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, xây dựng xã hội số, chính phủ số, kinh tế số, công dân số... Với sự bùng nổ của tri thức khoa học, thời đại ngày nay đang làm tăng lên gấp bội vai trò của giới trí thức; đồng thời, cũng tạo ra cả thách thức và cơ hội đan xen cho phát triển, đặt ra trách nhiệm nặng nề và vẻ vang cho giới trí thức nước ta trong tham gia đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước và nâng cao uy tín, vị thế của quốc gia. Vì vậy, Đảng, Nhà nước phải có quyết sách đúng đắn, kịp thời để phát triển đồng bộ, toàn diện đội ngũ trí thức và phát huy mạnh mẽ vai trò, động lực của họ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ở thời điểm có tính bước ngoặt. Theo đó, cần tập trung thực hiện những định hướng, giải pháp chủ yếu sau:

Về nhận thức:

Cần nhận thức sâu sắc, toàn diện, mạnh mẽ hơn về vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”(2), “Một phần tương lai của dân tộc”(3) là từ sự nỗ lực và đóng góp của họ. Nghị quyết số 27-NQ/TW khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế... Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững... Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định”(4).

Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: nongnghiep.vn)


Phương hướng sắp tới là xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp, có khát vọng đóng góp để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Về cơ chế, chính sách:

Cần có chính sách đột phá đủ mạnh để khuyến khích, thu hút nhân tài khoa học và công nghệ, thực hiện việc thu hút trí thức trên ba mặt chính yếu sau:

Một là, về chế độ đãi ngộ, thu nhập:

Cần “Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(5).

Hai là, về điều kiện, môi trường làm việc:

Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học, có cơ chế thực hành dân chủ, phát huy tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm cá nhân trong nghiên cứu khoa học, công bố kết quả nghiên cứu phải theo đúng quy định. Ưu tiên đầu tư phát triển, mà đầu tư quan trọng là tạo dựng cho được không gian sáng tạo. Cần cải thiện môi trường làm việc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, cạnh tranh lành mạnh, tạo cơ hội cho việc phát triển nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức; giải phóng mọi tiềm năng, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đội ngũ trí thức.

Cần tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, tập trung đầu tư cho ba đột phá chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, với những nội dung cụ thể là:

- Hoàn thiện hệ thống thể chế theo hướng tạo động lực phát triển, trong đó có thể chế phát triển khoa học và công nghệ. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động nghiên cứu, quản lý khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và phù hợp với cơ chế thị trường.

- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó coi trọng phát triển toàn diện nguồn nhân lực về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng Tổ quốc với những chính sách trọng dụng và tôn vinh, ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi về công việc, điều kiện sinh sống, để họ yên tâm cống hiến. Các tổ chức của Đảng, Nhà nước cần có chính sách đặt hàng giao nhiệm vụ cho nhà khoa học, đặc biệt là có lòng tin cao hơn nữa đối với nhà khoa học.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cho phát triển, chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ. Đầu tư một cách hệ thống cho các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy, thí nghiệm và ứng dụng; liên kết chặt chẽ giữa ứng dụng công nghệ, thị trường và doanh nghiệp; xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh.

- Chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược khoa học - công nghệ và chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo.

Ba là, về tôn vinh trí thức:

Đảng và Nhà nước cần thực sự tôn trọng hơn nữa trí thức, tôn vinh trí thức, các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia khoa học và công nghệ. Các bậc tiền nhân đã dạy: “Phi trí bất hưng”, “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”; đội ngũ trí thức chính là hiền tài của đất nước, là vốn quý của dân tộc nên cần được coi trọng, tôn vinh, phát triển hơn nữa. Muốn vậy, Đảng cần có chính sách đột phá về nhân tài, chính sách vượt trội đối với đội ngũ trí thức; đầu tư cho nhân tài là đầu tư sinh lợi lớn nhất, nên cần có chiến lược phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài. Cần có chính sách tạo động lực mạnh mẽ cho đội ngũ trí thức hết lòng cống hiến tài năng, tâm huyết của họ vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển mới./.

GS. TS. LÊ HỮU NGHĨA
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng
Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

______________________ 

(1) (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.83, 167.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.184.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.556.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2018, t.67, tr.799-800.

(Nguồn: TC Cộng sản)

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây